Chùa Nhạn Sơn thờ Phật, ở phía bắc thành Bình Định, cách chừng bốn năm cây số. Từ Bình Định đi xe lửa đến ga Vân Sơn, trông về hướng tây thì thấy một hòn núi đất sỏi, ba ngọn tròn trịa, màu gạch chín, dưới chân một đám xoài xanh rậm làm nổi bật sắc sỏi đỏ và màu đất xám ở chung quanh.
Đó là núi Long Cốt, trước kia làm tiền án cho thành Đồ Bàn, hiện nay làm bức bình phong yểm hộ chùa Nhạn Sơn nép mình dưới bóng xoài sum mát.
Núi nằm trong thôn Nhạn Tháp, nên cũng thường gọi là núi Nhạn Tháp, và chùa nằm dưới chân núi nên mang tên là chùa Nhạn Sơn.
Kiến trúc của chùa không có chi lạ, và tên Nhạn Sơn mới đặt sau này. Trước kia gọi là Thạch Công Tự, tục gọi là chùa ông Đá, vì trong chùa có hai tượng đá rất to lớn. Hai tượng này đứng đối diện nhau. Mỗi tượng cao đến ba thước tây và lớn có đến hai ôm người lớn. Mình khoác áo đại bào, đầu đội mũ vũ đằng, tay cầm vũ khí (một tượng cầm giản, một tượng cầm kiếm), mặt mày dữ tợn, người yếu bóng vía không dám đứng cận kề.
Người ta bảo đó là tượng của hai ông Huỳnh Tấn Công và Lý Xuân Điền đời nhà Trần.
Truyền rằng:
Huỳnh Tấn Công người quê Hóa Châu, tài gồm văn võ, ra Thăng Long tìm bác làm quan lớn tại triều. Dọc đường bị nạn, nhờ Lý Xuân Điền ở Ninh Bình cứu trợ, nên hai người kết làm bạn thân.
Lý Xuân Điền cũng là một bậc anh tuấn, văn thông võ luyện. Sau khi Huỳnh Tấn Công tìm gặp được bác rồi, thì Lý Xuân Điền được người bác của Huỳnh tiến cử lên nhà vua. Lúc bấy giờ ở biên thùy thường bị người Trung Hoa quấy nhiễu, nhà vua sai Lý Xuân Điền cầm binh đi đánh dẹp.
Ở nhà Huỳnh Tấn Công thi đậu trạng nguyên cả văn lẫn võ. Gặp lúc Chiêm Thành kéo quân sang đánh Hóa Châu, vua sai Huỳnh Tấn Công đem đại binh đi chinh phạt. Quân nhà Trần đuổi quân Chiêm Thành ra khỏi nước và thừa kế đánh thẳng vào kinh thành địch. Nhưng bị lầm quỷ kế, binh sĩ lớp bị giết, lớp bị bắt sống, Huỳnh Tấn Công cũng bị bắt làm tù binh.
Không thấy vua nhà Trần cho người đến chuộc tù binh, vua Chiêm bèn bán Huỳnh Tấn Công cho nước khác làm nô lệ. Huỳnh Công nay bị bán chỗ này, mai chỗ nọ, tấm thân chịu lắm đau thương. Sau lại lọt vào tay một vị lão thần nước Chiêm Thành, Huỳnh Tấn Công trở về lại Chiêm Thành. Về Chiêm, nhờ cứu vị lão thần khỏi bệnh dịch tả, Huỳnh Tấn Công được trọng đãi, không còn phải làm những công việc nhọc nhằn.
Trong khi Huỳnh Tấn Công ở Chiêm Thành thì Lý Xuân Điền dẹp giặc xong trở về xin trí sĩ. Nghe tin bạn mắc nạn, họ Lý thu góp tiền của, tìm đường sang Chiêm Thành. Trải bao nhiêu ngày tháng, chịu bao nhiên gian lao, Lý Xuân Điền tìm được Huỳnh Tấn Công, mừng vui thương tủi, nước mắt nghẹn lời.
Rồi Lý Xuân Điền xin chuộc bạn. Vị lão thần Chiêm Thành, phần để chịu ơn Huỳnh Tấn Công cứu khỏi bệnh, phần cảm tấm lòng vị nghĩa của Lý Xuân Điền, nên hoan hỉ để cho Huỳnh Tấn Công về quê hương mà không nhận tiền chuộc.
Hai người bái biệt vị quan Chiêm.
Lý, Huỳnh ra về được ít lâu, vị quan Chiêm thương nhớ, bèn mướn thợ tạc tượng hai ông để ngày ngày thấy mặt.
Đó là sự tích hai ông đá chùa Nhạn Sơn.
Do sự tích ấy mà nhiều người gọi chùa là Song Nghĩa tự.
Chuyện họ Huỳnh, Lý lưu truyền đã từ lâu. Có người đã viết thành tiểu thuyết (xuất bản vào khoảng 1920-1925) và cụ Bùi Văn Lang, giáo sư ở Bình Định đã đem sự tích vào sách Địa Dư Mông Học tỉnh Bình Định (xuất bản năm 1933 và tái bản năm 1935). Nhờ vậy mà chuyện họ Lý họ Huỳnh được phổ biến rộng rãi và hai ông đá trở thành "người có gốc rễ hẳn hoi". Những người nghe, phần nhiều đều tin là sự thật. Và người ở trong chùa cũng dùng sự tích họ Lý họ Huỳnh để cắt nghĩa sự hiện diện của hai ông đá.
Nhưng sự thật thì sao?
Trước hết thử mở pho Việt Sử xem kỹ lại. Các tướng đem quân đi đánh giặc Tàu, giặc Chiêm đều có ghi rõ danh tánh. Không có tướng nào mang tên Lý Xuân Điền và Huỳnh Tấn Công.
Mà chẳng cần phải lật sử cho tốn công. Chúng ta lật thử tấm áo bào của hai ông đá lên thì biết rõ: Không phải hình tượng người Việt Nam vì từ xưa đến nay, trừ hai cha con Chử Đồng Tử và anh Trần Minh, không có ai chịu mặc vỏn vẹn có chiếc "khậu tối cổ" là chiếc khố rằn ri. Mà hai tượng đá chùa Nhạn Sơn lại đóng khố. Đóng chiếc khố nhiều màu, đẹp đẽ mà những đồng bào thiểu số giàu có của chúng ta thường mặc.
Chắc có bạn sẽ bảo:
- Bởi Huỳnh Tấn Công ở Chiêm Thành lâu ngày, nên theo phong tục người Chiêm?
Xin cãi:
- Cũng có lý, song Lý Xuân Điền ở Việt Nam mới qua, sao lại "Chiêm Thành hóa" ông ấy vội quá thế.
Huống nữa người đời Trần, trừ đám vũ công vũ nữ, không mấy ai học múa, nhất là các quan lớn thay mặt vua chăn dân, hay vâng mệnh vua đi đánh giặc. Mà hai tượng ông đá chùa Nhạn Sơn lại thể hiện dáng điệu hai người đối nhau mà múa: chân sụn, thân uốn, tay dương…
Rõ ràng đây là hai tượng người Chiêm đương biểu diễn một vũ khúc.
(Còn nữa)
. Theo Nước non Bình Định (Quách Tấn) |