Một đêm, trong khi quân lính bao vây sơn trại, Lía cùng một ít quân lâu la lẻn ra đường núi, đi thẳng đến thành Quy Nhơn. Thừa lúc tối trời, Lía cõng lâu la nhảy vào thành, phóng hỏa đốt các doanh trại. Quân canh không trở tay kịp. Lửa cháy ngất trời. Nhân dân trong thành tưởng giặc đến cướp thành, kéo nhau mà chạy. Kẻ chạy lên, người chạy xuống… hớt hải quấn quít, xô lấn nhau, dậm đạp nhau. Tiếng khóc tiếng la vang dội khắp đây đó… Viên tuần phủ giật mình thức dậy, vừa bước chân xuống đất thì đầu liền bay! Người ái thiếp cùng chung gối bị bắt mang đi…
Không biết giặc nhiều ít thế nào, sợ Quy Nhơn bị thất thủ, bọn quan lại phò tá viên tuần phủ liền hỏa tốc gọi quân cứu viện về giữ thành. Phần bị Lía gặp giữa đường chận đánh, phần bị cha Hồ chú Nhẫn thúc lâu la đuổi theo đánh, quân Quy Nhơn thất kinh không dám chống cự ném khí giới chạy thoát thân …
Được tin Quy Nhơn có biến, quan Thừa Tuyên dinh Quảng Nam, một mặt cho binh vào cứu viện, một mặt làm sớ tâu về Phú Xuân. Chúa Nguyễn cử người vào trấn Quy Nhơn và cấp thêm một đạo tinh binh để dẹp giặc.
Lía biết trước cho đắp thành lũy thêm cao và mở thêm đường bí mật để tiếp tế cho được dễ dàng trong khi bị bao kích. Địa thế đã hiểm, việc phòng bị lại chu đáo, nên Truông Mây bị công phá mấy năm liền vẫn không chút nao núng. Liệu dùng sức không thắng nổi, viên trấn thủ Quy Nhơn rút quân về để mong thắng bằng mưu. Dò biết nàng ái thiếp của cựu tuần phủ, từ khi bị bắt về trại, được Lía tin yêu lấy làm vợ, y bèn tìm người thân quyến của nàng cho vào trại dụ dỗ làm nội ứng.
Mưu chước đã thành, chỉ còn chờ cơ hội.
Một hôm bọn Lía đánh cướp được một đám lớn, về xẻ bò mổ trâu ăn mừng. Vợ Lía lén bỏ thuốc mê vào rượu. Cả trại đều say vùi. Lía và cha Hồ chú Nhẫn bị nàng ép uống, cũng say. Hồ Nhẫn thì nằm gục nơi bàn tiệc mà ngủ. Còn Lía thì gượng vào nội tẩm. Lúc bấy giờ trời đã khuya.
Nơi Lía nằm không để vật gì khác hơn là một tấm phản ngựa gõ độc chiếc, dày hơn một gang, rộng năm gang và nặng đến mươi người khiêng. Lúc nghỉ ngơi Lía cởi trần nằm sải trên phản, không cần chăn, không cần gối.
Lía lảo đảo vào nằm sải nơi phản. Vừa đặt lưng thì ngủ thiếp. Vợ Lía lấy dây thừng trói tay chân chắc chắn rồi trói ghì cả châu thân vào tấm phản. Lại biết Lía có đầu tóc dài và lợi hại như đầu tóc Lã Bố, nàng rẽ mái tóc vóc thành hai đuôi sam làm dây cột siết đầu Lía vào phản. Nàng trói luôn cha Hồ chú Nhẫn bỏ nằm giữa trại. Đoạn mở cửa thành đi thẳng về Quy Nhơn báo tin cho viên trấn thủ.
Viên trấn thủ Quy Nhơn đem quân lên trại Lía thì đã gần sáng. Cả trại đều còn say. Trong ngoài im phăng phắc. Cửa thành bỏ trống. Nhưng viên trấn thủ còn ngại Lía bày mưu gạt gẫm nên không dám cho quân nhập thành. Quân vây thành đợi trời thật sáng. Sau khi cho người dò la hư thiệt, viên trấn thủ hô binh ùa vào thành. Lúc bấy giờ một ít lâu la vừa tỉnh rượu thấy quân lính kéo vào, thất kinh la ó. Nhưng bọn lâu la giật mình tỉnh dậy, chưa kịp đứng lên thì lớp đã bị chết, lớp bị bắt! Cha Hồ, chú Nhẫn không cựa quậy nổi! Lía nghe ồn, mở mắt, thấy mình bị trói, nổi giận hét lên một tiếng, giãy đứt dây trói chân… Vừa lúc ấy quân lính ùa vào bắt. Lía vùng đứng lên, mang tấm phản sau lưng. Quân lính áp tới, Lía quay tròn mình, dùng phản làm binh khí, đánh ngã tất cả. Ra ngoài thấy toàn thể bộ hạ bị hại, liệu không phương cứu vãn, bèn mở vòng vây, mang tấm phản nhảy lên núi. Quân lính không thể đuổi kịp, đánh phá hủy sơn trại, rồi dẫn bọn cha Hồ chú Nhẫn về Quy Nhơn.
Lía lên núi, cứ mang tấm phản, theo đường rừng mà đi. Phần thương đồ đảng bị hại, phần giận con đàn bà gian ác, Lía muốn xuống thẳng thành Quy Nhơn để trả thù. Nhưng không sao cởi được trói. Đi mãi trong rừng ngót mấy ngày đêm, chợt nhớ lại cảnh cũ, bèn băng rừng về Phú Phong. Vào Bá Bích thấy thành lũy đã bị phá tan hoang, cảnh vật đìu hiu quạnh quẽ! Phần thì đói, phần thì mỏi, phần thì buồn thương… Lía không muốn đi nữa. Dựa tấm phản vào vách đá đứng nghỉ, lòng phân vân chưa biết phải làm gì đây. Chợt một ông lão, dép da trâu, vai mo cơm đòn gánh, tay xách rựa, ung dung đi tới. Lía gọi đến nhờ mở dây. Ông lão không chút chần chờ. Mở xong hỏi:
- Kẻ anh hùng sao nỗi sa cơ thất thế?
Lía đáp:
- Có cơm cho ăn rồi sẽ nói chuyện.
Ông lão trao mo cơm bầu nước. Lía ăn uống xong, thuật hết mọi nỗi rồi nói:
- Chỉ vì một con đàn bà mà bạn bị hại, thân bị nhục tội thật đáng chết. Ơn lão trượng mở giùm dây trói, cứu giùm đói, không biết lấy gì đền đáp. Kính dâng vật này để đem xuống phủ lãnh thưởng.
Nói đoạn giựt rựa nơi tay ông lão, tự chặt vào cổ… Máu phun đầu rơi!
Ông lão ứa nước mắt nói:
- Sao nhà ngươi nóng nảy thế?! Lão đây tài sơ sức yếu phải đợi chết già. Chớ nếu được như nhà ngươi thì há để cho bọn tham quan ô lại sống an nhàn trên mồ hôi nước mắt của dân chúng.
Rồi lo chôn cất Lía tử tế. Về nhà kể chuyện lại cho con cháu nghe, dặn không nên tiết lộ cho bọn quan quyền biết và nói:
- Nếu Lía gặp được người như Lưu Huyền Đức để phò, hoặc có một người như Phạm Tăng ra giúp, thì sự nghiệp nhất định vẻ vang. Có thiên tài mà không có thiện duyên, cũng trở thành vô dụng.
Lại nói:
- Những kẻ có tài xuất chúng, không thể đem tài năng ra giúp đời được, thì không làm ăn cướp còn biết làm gì để bài tiết được nổi uất hận ở trong lòng!
Còn viên tuần phủ Quy Nhơn ra sức truy nã Lía, lâu ngày không thấy thu được kết quả gì, bèn bỏ qua. Và để trừ hậu họa, sai phá bằng tất cả thành lũy và chặt hết mây ở nơi Truông.
Truông Mây hiện thời chỉ là kỷ niệm.
Và từ khi sào huyệt của cha Hồ, chú Nhẫn bị diệt, khách bộ hành thỉnh thoảng có đi qua. Đối cảnh nhớ người, bèn soạn ra câu hát:
Chiều chiều én liệng Truông Mây,
Cảm thương chú Lía bị vây trong thành.
. Theo Nước non Bình Định (Quách Tấn) |