Hoàng đế Quang Trung được Càn Long trọng thị như thế nào
5:53', 17/2/ 2006 (GMT+7)

Sau trận Đống Đa, Càn Long (1711-1799) - vị hoàng đế thứ tư của triều Thanh, người được sử sách Trung Quốc ca ngợi là một trong 10 vị hoàng đế nổi tiếng nhất Trung Quốc đành chấp nhận lời cầu phong của Hoàng đế Quang Trung cùng nhiều điều kiện hết sức thoáng. Thế nhưng ly kỳ và hy hữu nhất là những chuyện diễn ra khi hoàng đế Đại Việt sang dự lễ mừng thọ 80 tuổi (Bát tuần vạn thọ) của Càn Long. Chuyện là như thế này.

Ngay từ đầu Càn Long và cả các quan lại nhà Thanh đều biết tỏng ông vua Quang Trung chịu sang dự lễ chỉ là giả vương. Nhưng có còn hơn không, Càn Long vẫn tiếp đãi trọng thị, ban cho nhiều báu vật và bài thơ do chính tay viết ra tặng Quang Trung.

Không phải trọng đãi khi phái đoàn đã đến nơi. Vua Càn Long đã chỉ đạo cho thuộc hạ tiếp đón vua Quang Trung ngay trên đường đi. Mỗi khi có vật ngon của lạ, vua Càn Long đều sai ngựa trạm đem đến cho đoàn sứ bộ An Nam.

Lúc đoàn mới đến biên giới, vua Thanh đã sai tặng bánh sữa, quạt và đồ hương khí. Khi sứ bộ đến Hứa Châu (cách Nhiệt Hà nơi vua Càn Long đang nghỉ hè hơn... 2.100 dặm) để tỏ lòng quý trọng vua ta, Càn Long đã sai ngựa trạm chạy đến biếu vua ta 5 quả vải tươi (tặng vua 2 quả, Phúc Khang An 2 quả, Ngô Văn Sở 1 quả). Vua Càn Long dặn Phúc Khang An nói cặn kẽ với vua ta như sau: "Vải là sản ở phương Nam, An Nam cũng có của này, tưởng không quý mấy. Nhưng ở kinh đô bên này, không hề có vải, mỗi năm phải do Mân Nam dâng tiến, nên rất quý. Trừ phi bậc vương công, đại thần thì không được thưởng cái ân khác thường ấy. Nay đặc cách cho chạy trạm đem đến ban thưởng, thật là một thứ ơn ban ngoài lệ thường. Lại nghĩ Ngô Văn Sở là bề tôi thân tín và đắc lực của quóc vương, chuyến này Sở lại nài xin  mấy lần xin cùng đi để chiêm cận, đáng khen tấm lòng thành đó. Vậy nên Sở cũng được ban thưởng cái ân này".

Qua cách tiếp đón và nhất là qua hai bài thơ ta thấy được vị thế của vua Quang Trung đã làm thay đổi chính sách của Càn Long đối với nước ta và thái độ mềm dẻo, khéo léo của ông. Hai bài thơ đó trích từ "Đại Việt quốc thư" (Trung tâm học liệu Bộ Giáo dục- Sài Gòn , 1973) như sau:

Thơ của Càn Long:

Doanh phiên nhập cận trị thời tuần

Sơ kiến hồn như cựu thức thân

Y cố vị vãn lai Tượng quốc

Thắng triều vãng sự bỉ kim nhân

Cửu kinh nhu viễn chi trùng dịch

Gia hội ư kim miễn thế nhân

Vũ yển văn tu thuận thiên đạo

Đại Thanh tộ vĩnh vạn thiên xuân

Phỏng dịch:

Vào chầu vừa gặp buổi thời tuần

Mới thấy mà như kẻ vẫn thân

Thửơ trước có đâu chầu Tượng quốc

Đời xưa đáng bỉ việc kim nhân

Kẻ xa không quản bao đường trạm

Hội tốt từ nay gắng việc nhân

Nghỉ võ, sửa văn là phải lối

Nhà Thanh lâu mãi vạn nghìn xuân

Bài thơ nói lúc vua Quang Trung sang chầu thì vua Càn Long đang đi tuần thú (thời tuần). Quang Trung được xem như người thân cũ. Từ trước chưa có vua nước ta sang chầu vua Trung Quốc (chữ Tượng quốc lấy từ chữ Tượng quận thời nhà Hán đô hộ để chỉ nước ta). Chê đời trước bắt ta mỗi lần sang cống phải đúc một người bằng vàng (kim ngân) (thời nhà Minh đền mạng Liễu Thăng). Nay sẽ nghỉ việc võ gắng việc nhân, dùng văn là thuận với đạo trời.

Giả vương Đại Việt cũng làm một tờ biểu tạ ân Càn Long đề ngày 20 tháng 7 năm thứ 55 hiệu Càn Long (1790) và hoạ lại bài thơ trên:

Thơ của vua Quang Trung họa lại sử không ghi lại do ai làm (có sách nói là vua sai Phan Huy Ích làm), và không biết có phải là họa tại chỗ hay không, nhưng văn bản còn lại thì nó như thế này:

Thượng tái cung chiêm ngọc lộ tuần

Khuynh quỳ nhất niệm hiệu tôn nhân

Ba trừng Quế - Hải tuân hầu độ

Nhật noãn minh giai kiến thánh nhân

Vạn lý thê hàng quy hữu cực

Cửu trùng vũ lộ mộc đồng nhân

Kiền hành cảnh ngưỡng vô cương thọ

Phả xuất tư đào đế thế xuân

Phỏng dịch:

Triều cận vừa khi ngọc lộ tuần

Một lòng quỳ, hoắc gắng tôn thân

Sóng êm bể quế theo hầu độ

Trời ấm thềm minh, thấy thánh nhân

Muôn dặm thang buồm về hữu cực

Chín tầng mưa móc khắp điều nhân

Quẻ kiền nguyện chúc muôn năm thọ

Góc bể chân trười một cảnh xuân

Vua Quang Trung khiêm nhường tự ví mình như rau quỳ, rau hoắc, cành lá đều nghiêng về phía mặt trời, ngụ ý bề tôi bao giừ cũng nghiêng lòng thờ vua. Chữ bể quế dịch từ Quế Hải (hai quận Quế Lâm và Nam Hải thời nhà Hán đô hộ) để chỉ nước ta được "sóng êm, nắng ấm" như thời vua Nghiêu. Mấy câu cuối ca ngợi điều nhân của vua Càn Long và chúc tụng.

Xem xong tờ biểu và thơ, Càn Long thích chí và phê ngay: "Vui bằng lòng, vui bằng lòng thể thơ hoạ lại cũng hay và phải lẽ…". Thế là chỉ một thời gian ngắn sau thất bại thảm hại ở nước ta, quan hệ bang giao giữa hai nước đã được thiết lập, tránh được cuộc đổ máu lần thứ hai giữa lúc đất nước còn muôn vàn khó khăn chồng chất. Cũng nên nhắc lại rằng, trong lịch sử phong kiến hai nước, chưa bao giờ vị thế của nước ta lại vững vàng như dưới thời Tây Sơn - Nguyễn Huệ. Điều đó cho thấy Quang Trung - Nguyễn Huệ là một lãnh tụ biết nhìn xa trông rộng, không những là một nhà quân sự thiên tài mà còn là một tài năng lỗi lạc trên lĩnh vực ngoại giao và nhiều lĩnh vực khác nữa.

  • Khả Xuân
In trang Gửi phản hồi

CÁC TIN KHÁC >>
Mùa xuân đi coi hát bội  (16/02/2006)
Hồ Hoa Huệ - Nữ chưởng môn độc nhất vô nhị  (15/02/2006)
Hé mở hướng đi tìm lăng mộ Vua Quang Trung ?  (10/02/2006)
Tĩnh lặng Sơn Long  (10/02/2006)
Thăm quê hương Bùi Thị Xuân  (09/02/2006)
Hơn 200 năm trước Nguyễn Nhạc sẵn sàng mở cửa  (07/02/2006)
Nhà Tây Sơn và việc thượng tôn pháp luật  (05/02/2006)
Bánh tráng  (01/02/2006)
Ngàn dặm Huyền Trân   (28/01/2006)
Bãi võ đầu xuân   (28/01/2006)
Văn bia kỷ niệm chó và tư tưởng của nhà chí sĩ Phan Bội Châu  (27/01/2006)
Đàn Nam Giao đầu tiên của nhà Tây Sơn  (25/01/2006)
Anh hùng với giai nhân  (24/01/2006)
Đô đốc Long quê ở đâu ?  (22/01/2006)
Sắc màu Ba na  (20/01/2006)