Bình Định thông sử diễn ca (I)
16:7', 14/6/ 2006 (GMT+7)

Bình Định thuỷ tú sơn kỳ

Như tranh thuỷ mạc, như tia nắng hồng.

Từ Bình Đê đến Cù Mông,

Núi non trùng điệp, ruộng đồng bao la.

Rừng vàng, biển bạc quê ta

Nặng tình đất nước, chan hoà lòng dân.

 

Nghìn xưa, Bến Đá-Thạch Tân

Phân ranh Quảng Ngãi, Hoài Nhơn rõ ràng.

Bình Đê mở lối thông thương

Hai miền Bình, Quảng trên đường bắc nam.

 

Hoài Ân có dãy Kim Sơn

Thời Lê nổi tiếng khai vàng cống vua;

Tổng Dinh, căn cứ năm xưa

Của Tăng Bạt Hổ dưới cờ Cần Vương.

Bích Kê thuộc huyện Hoài Nhơn,

Chớp Chài, đồn trại Văn thân Bùi Điền.

Phù Mỹ, Lạc Phụng ngắm nhìn

Nước đầm Trà Ổ lung linh mây trời.

 

Trên đường thiên lý xa vời

Có đèo Phủ Cũ, một thời nổi danh

Với vùng Tam Tượng chè xanh

Đậm đà hương vị, thắm tình quê hương.

Đèo Nhông, tên chữ Hải Lương

Còn ghi chiến tích ngoan cường sáu lăm (1)

Tượng đài chiến thắng vinh quang

Hiên ngang, lẫm liệt giữa ngàn cây xanh.

 

Màn Lăng, ranh giới phân minh

Hoài Ân, Phù Mỹ, gập ghềnh cheo leo

Thạch Khê-Trung Hội đường đèo

Xưa kia nổi tiếng cọp beo thịt người.

Có truông tên gọi Truông Mây

Nơi đây chàng Lía bị vây trong thành,

Anh hùng vì nghĩa hy sinh,

Tấm gương sáng chói muôn nghìn năm sau.

 

Núi Bà có đá Vọng Phu;

Có hang Chàng Lía ăn sâu tận cùng;

Có ngôi cổ tự Linh Phong

Gọi chùa Ông Núi nặng lòng dân gian.

Cảnh quan kỳ mỹ tuyệt trần

Cây xanh chen đá, đá cành chen nhau,

Suối khe róc rách sân sau,

Quanh co rồi lại gặp nhau tại hồ

Hương sen bát ngát, lững lờ,

Phiêu diêu cửa Phật, hư vô cõi trần.

 

Đề Gi có hòn Lang Sơn

Có đầm Đạm Thuỷ nước dờn dợn xanh(2)

Hòn Lang sóng với Vỉ Rồng

Ngắm nhìn động cát điểm son hằng hà.

 

Quy Nhơn nổi tiếng gần xa

Phương Mai, Gành Ráng đậm đà sắc hương!

Triều Châu thấp núi, thưa rừng,

Hòn Mai, Điệp Chữ, Chớp Vung...liền kề.

Cổ Rùa cùng với Hổ Ky

“Giao nha hổ khẩu”, xưa nay thế hùng.

Mũi Mác, Hòn Yến- đất lành,

Đàn chim én đến nhả vàng mùa xuân.

 

Gành Ráng, đuôi núi Xuân Vân

Chạy ra bờ biển từ vùng Vũng Chua.

Chất chồng những khối đá to

Thiên hình, vạn trạng, hình thù khác nhau.

Nào là Voi Đá, Vọng Phu,

Hòn Chồng, Gấu Đá...nằm chầu biển khơi,

Nào Đầu Sư tử nhìn trời

Chực vờn ra biển nuốt trôi sóng thần...

Một vùng đá nhỏ xanh tròn

Tạo nên Bãi Trứng tiên rồng thuở xưa-

Bãi tắm Hoàng hậu mộng mơ

Dưới lầu Bảo Đại  bên bờ biển xanh.

Trên đồi Gành Ráng thanh bình

Hồn thơ Mặc Tử  nặng tình nước non.

 

Qui Hoà nằm ở phía nam

Dong Đùa- suối nhỏ bắt nguồn Xuân Vân.

Nơi đây nổi tiếng trại phong,

Lương y từ mẫu, hết lòng vì dân.

Hoa Đà, Hải Thượng Lãn Ông,

Danh y thế giới...tượng đồng thiêng liêng.

 

Cù Mông, ranh giới Phú Yên,

Đèo dài, khúc khuỷu chênh vênh đất trời...

Chiều chiều én liệng, mây trôi

Nhớ Trần Quang Diệu sáng ngời Canh Thân (3).

 

Vân Canh có dãy Dương An

Được tôn Núi Chúa cao ngàn mét hơn

Nhân dân thường gọi Hòn Ông,

Cây cao, rừng rậm quanh năm xanh dờn.

 

Tây nam, điệp điệp, trùng trùng

Tây Sơn hoành tráng, sử vàng còn ghi

Biết bao sự tích thần kỳ,

Chiến công oanh liệt xưa nay chưa từng.

Mỗi ngọn núi, mỗi dòng sông

Đều mang hào khí vẻ vang một thời:

Hiển Hách thuần phục ngựa trời,

Hai Trầu thu phục lòng người Ba Na.

Cô Hầu, đồng ruộng bao la

Cùng núi Hoàng Đế thiết tha nặng tình.

Hai hòn Ông Nhạc, Ông Bình

“Non xanh, nước biếc như tranh họa đồ.”

 

Nhớ xưa sau lễ tế cờ

Tại dốc cây Ké trên đèo An Khê,

Ầm ầm binh mã kéo về

Giữa lòng Tâm Phúc (4) đề huề khao quân,

Nửa đên, Hóc Yến tiệc tan,

Hôm sau quân kéo xuống hòn Đồng Phong,

Nơi đây binh sĩ thong dong

Tiếp nhận lương thực, gọi hòn Lãnh Lương (5).

 

.           Hoành Sơn, tục gọi Núi Ngang,

Mộ phần Phi Phúc nằm trong dãy nầy.

Tương truyền chính tại nơi đây

Ấn vàng, kiếm bạc trao tay anh hùng.

Sấm rền “ Trì thống, phụ nguyên (6)

Đổi Hồ ra Nguyễn đứng lên phất cờ

Làm nên sự nghiệp cơ đồ

Lưu danh muôn thuở, bây giờ còn vang...

 

Phú Phong, căn cứ Cần Vương

Biết bao tên núi, tên làng, tên sông

Còn in dấu ấn Mai Công:

Đồng Hươu, Bắc trại dùng làm bản doanh,

Đồng Vụ, Nam trại-kho lương,

Đồng Le, Linh Đổng- động thần Linh Phong

Hang sâu thăm thẳm, mịt mùng,

Mật khu Xuân Thưởng bao năm tung hoành .

Kỳ Đồng, núi sỏi, thưa rừng,

Nơi đây trận chiến cuối cùng Mai Công!

Thứ Hương Sơn có bảo đồn

Của Mai Nguyên súy chặn đường giặc Tây.

 

Đồng Gian chảy xuống Đồng Hươu,

Sông Kôn uốn khúc quanh co, thác ghềnh

Ầm ầm nước đổ thác ngầm

Bồng bềnh đá dựng, gọi rằng Hầm Hô

Phong lan lơ lửng, mộng mơ,

Hoa sim tím ngát, hồn thơ đậm đà!

 

Tuy Phước có dãy Sơn Chà,

Có chùa Eo Mén do Bà Liên xây (7);

Mai Sơn rực rỡ vàng mai

Hồn mai Đào Tấn mộng dài toả hương .

Hàm Long lừng lẫy chiến công

Tại cầu Trường Úc, đánh thực dân trận đầu

Gươm Đào Doãn Địch giương cao,

Nghĩa quân xốc tới ào ào diệt Tây...

 

Hòn An Tượng, đỉnh không cao,

Nơi đây Quang Diệu anh hào lập công (8).

Nguồn An Tượng huyện An Nhơn

Một thời nhộn nhịp bán buôn hai vùng

Ai về nhắn với nậu nguồn

Măng le gửi xuống, cá chuồn gửi lên”.

 

                        -- # -- 

 

Quê ta, sông nước dịu hiền

Quanh năm tắm mát mọi miền gần xa.

 

Lại Giang, giai điệu bờ xe

Rì rào, réo rắt, say mê lòng người!

Nước trong mang lại xanh tươi

Cánh đồng thấm đẫm sức người dẻo dai.

 

Kôn giang nổi tiếng sông dài

Chảy qua bốn huyện, miệt mài lượn cong,

Âm thầm tưới mát ruộng đồng,

Điều hoà khí hậu một vùng nông thôn,

Dạt dào đổ xuống biển đông

Ngắm thành phố cảng Quy Nhơn huy hoàng.

 

La Tinh, sông ngắn, ít nguồn,

Mùa khô, nước kiệt, nổng cồn trơ vơ.

Hạ lưu, nước chảy lững lờ

Vào đầm Đạm Thuỷ bên bờ biển xanh.

 

Có con sông nhỏ Hà Thanh

Phát nguyên rừng núi Vân Canh, xuôi dòng

Đổ vào Thị Nại mênh mông,

Tàu thuyền tấp nập biển đông ra vào...

 

Quê ta non nước đẹp sao!

Một vùng sinh thái dồi dào tiềm năng

Mở mang du lịch cảnh quan

Gắn liền lịch sử, ngày càng văn minh.

 

(1) Chiến thắng Đèo Nhông-Dương Liễu ngày 8-2-1965 nhằm nhày mùng năm tết Ất Tỵ.

(1)      Thơ Mộng Tuyết, thi nhân Việt Nam.

(2)      Năm 1800 Trần Quang Diệu đánh tan quân Nguyễn Ánh.

(3)      Tâm Phúc là tên gọi thung lũng Bà Phù.

(4)      Hòn Lĩnh Lương là ngọn Đồng Phong.

(5)      Chữ phụ ghép với chữ nguyên thành chữ nguyễn, hàm ý

Họ Nguyễn thống trị thiên hạ.

(6)      Mẹ vợ cụ Đào Tấn.

(7)      Năm 1800 Trần Quang Diệu đánh chiếm lại vùng An Tượng.

In trang Gửi phản hồi

CÁC TIN KHÁC >>
Bình Định thông sử diễn ca (II)   (14/06/2006)
Bình Định thông sử diễn ca  (14/06/2006)
Thượng sĩ Trần Đức Việt dũng cảm bắt giữ bọn côn đồ   (13/06/2006)
Phò mã Trương Văn Đa trấn thủ Gia Định  (09/06/2006)
Người quản trang tự nguyện ở Phước Nghĩa  (05/06/2006)
Bàn thành tứ hữu  (02/06/2006)
“Đi bụi” trên đất Tây Sơn  (01/06/2006)
Người mang lại niềm vui cho giáo dân Quy Hiệp  (30/05/2006)
Anh Long bắt trộm  (30/05/2006)
Cá chạch nấu lá gừng   (25/05/2006)
Một luật sư trợ giúp pháp lý tích cực   (24/05/2006)
Cô bé mê toán   (23/05/2006)
Một số cống hiến trên lĩnh vực quân sự của Đào Duy Từ   (22/05/2006)
Người “lập dị” đáng quý   (22/05/2006)
Tự học vẫn đoạt giải   (16/05/2006)