Trong số các danh nhân văn hóa Bình Định, Đào Tấn hiện lên như một ngôi sao sáng chói. Ông là một nhà thơ, nhà soạn tuồng, một nghệ nhân xuất sắc của Việt Nam cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
|
Nhà Đào Tấn ở Vinh Thạnh, Phước Lộc, Tuy Phước (ảnh: Đào Tiến Đạt)
|
Đào Tấn (1845-1907), tên đầy đủ là Đào Tăng Tấn, tự là Chỉ Thúc, hiệu là Tô Giang, Mai Tăng, Mộng Mai thuộc dòng dõi Lộc Khê hầu Đào Duy Từ (1572-1634)-một danh nhân thời chúa Nguyễn, vào lập nghiệp ở đất Đàng Trong đầu thế kỷ 17.
Đào Tấn người làng Vinh Thạnh, xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước. Cha là Đào Đức Ngạc, mẹ là Hà Thị Loan. Ngay từ thuở nhỏ ông đã nổi tiếng là thông minh dĩnh ngộ. Năm 22 tuổi Đào Tấn là một trong số 18 người đỗ cử nhân khoa thi hương năm Đinh Mão (1867) tại trường thi Bình Định (bao gồm sĩ tử từ Quảng Ngãi tới Khánh Hòa). Bốn năm sau, vào năm Tự Đức thứ 24 (1871), ông được bổ quan rồi thăng tiến rất nhanh: Tri phủ Quảng Trạch, Quảng Bình (1874), Phủ doãn Thừa Thiên (1882). Ông thường cùng vua Tự Đức bàn luận văn chương, vua tôi rất tâm đắc.
Những năm này triều đình Nguyễn ươn hèn liên tiếp nhượng bộ, mà thực chất là từng bước dâng đất nước cho thực dân Pháp. Là người nặng tư tưởng trung quân, Đào Tấn dường như đứng ngoài cuộc kháng chiến của toàn dân đang sôi sục khắp trong Nam ngoài Bắc. Nhưng mặt khác, ông lại là người yêu nước, thấy nước nhà lâm nguy mà không cứu, tự thấy hổ thẹn với chính mình. Ông viện cớ cha mẹ yếu xin từ quan về phụng dưỡng nhưng không được chấp nhận. Mãi khi cha mất ông mới được phép về quê.
Cuộc binh biến ở kinh thành Huế ngày 22 tháng 5 năm Ất Dậu (1885) của phái chủ chiến do Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đứng đầu thất bại, vua Hàm Nghi xuất bôn hạ chiếu Cần Vương đã thổi bùng ngọn lửa cứu nước. Ở Bình Định, phong trào Cần Vương do Mai Xuân Thưởng lãnh đạo phát triển mạnh mẽ, nhưng Đào Tấn vẫn đứng ngoài cuộc, từ chối lời mời tham gia phong trào của nghĩa quân, rồi đến chùa Linh Phong (Phù Cát) ở ẩn.
Đồng Khánh lên ngôi, vốn là chỗ cố tri, lập tức cho mời ông tiếp tục tham chính. Đào Tấn trở lại triều đình nhậm chức, rồi làm Tổng đốc An - Tĩnh (Nghệ An - Hà Tĩnh) năm 1889, Công bộ Thượng thư (1897)… Năm 1904, vì chống tên việt gian Nguyễn Thân, ông bị cách chức rồi lui về quê nhà ở ẩn. Ba năm sau (1907), ông mất, thọ 62 tuổi.
Cuộc đời chính trị của Đào Tấn, cứ nhìn vào các chức vụ mà ông đã trải qua, các tước vị mà ông đã đạt được, có thể nói là hanh thông. Nhưng đặt trong hoàn cảnh đất nước thời kỳ này thì thái độ ứng xử quả có nhiều điều chưa thỏa, dù vẫn biết ông là người yêu nước, là vị quan nổi tiếng liêm khiết, là nhà nho thanh bạch giản dị. Tuy nhiên, cái làm nên một danh nhân Đào Tấn không phải là sự nghiệp chính trị, là những thành đạt chốn quan trường, mà là sự nghiệp văn hóa của ông.
Nói đến Đào Tấn là nói đến những cống hiến lớn lao của ông đối với nghệ thuật tuồng. Sân khấu tuồng đã có ở Việt Nam từ rất sớm. Đến đầu thế kỷ 13 đã xuất hiện nhiều vở nổi tiếng còn truyền lại đến ngày nay. Tuy nhiên, bấy giờ bộ môn nghệ thuật này chưa được tổ chức mang tính chuyên nghiệp. Đến thời Đào Tấn, bằng những đóng góp xuất sắc của ông, với lòng say mê, tài năng và tâm huyết, nghệ thuật tuồng Việt Nam đã đạt đến bước phát triển rực rỡ.
Ông lập Ban hiệu thư ở Huế chuyên sáng tác, Học bộ đình ở Bình Định chuyên đào tạo diễn viên. Hàng năm, các vở tuồng nối tiếp nhau ra mắt công chúng, trong đó có 30 vở của Đào Tấn. Các vở tuồng xuất sắc của ông, có thể kể đến như Quần trân hiểu thoại, Tứ quốc lai vương, Tam bảo thái giám hữu bửu, Cổ thành, Quan công quá quan, Tân dã Đồn, Hoàng Phi Hổ quá quan, Trầm hương các, Hộ sanh đàn, Khuê các anh hùng… và nhuận sắc một số vở như Tam nữ đồ vương, Sơn hậu, Ngũ hổ bình tây, Nguyệt cô hóa cáo…
Trong lịch sử tuồng Việt Nam, Đào Tấn là tác giả viết nhiều nhất và có chất lượng cao nhất. Ngoài ra ông còn có công trong việc hoàn thiện âm nhạc tuồng. Đào Tấn còn là người đầu tiên hệ thống hóa các vấn đề mỹ thuật sân khấu tuồng, từ trang trí, phục trang đến đạo cụ… Với những đóng góp đặc biệt xuất sắc, Đào Tấn xứng đáng được hậu thế suy tôn là "Hậu tổ" của nghệ thuật tuồng Việt Nam.
Cũng không thể không nhắc đến một Đào Tấn văn sĩ. Thơ ông được nhiều nhà nho đương thời khen ngợi. Những tác phẩm của ông gồm Mộng Mai thi tồn, Mộng mai từ lục, Mộng Mai ngâm thảo, Mộng Mai văn sao, đều viết bằng chữ Hán, trong đó về thơ có tới hàng trăm bài, nhiều bài có giá trị.
Mặc dù không giống nhiều sĩ phu bấy giờ, trước sự ươn hèn của vua tôi nhà Nguyễn, đã đứng về phía nhân dân hoặc phất cờ cùng nhân dân chống Pháp nhưng trước sau Đào Tấn vẫn là một người yêu nước. Điều này thấy rõ qua thơ văn của ông, đặc biệt qua nội dung các vở tuồng do ông sáng tác. Tuồng Đào Tấn nêu cao những tấm gương nhân nghĩa, lòng yêu nước, thương dân, sẵn sàng hy sinh vì đại nghĩa, đồng thời lên án mạnh mẽ bọn người xu nịnh, bọn quan lại hèn nhát. Dường như trong mỗi vở tuồng, Đào Tấn đều gởi gấm vào đó cả nỗi lòng mình.
Những năm cuối đời, Đầo Tấn về quê sống ẩn dật. Xa lánh chốn quan trường nhưng ông vẫn miệt mài sáng tạo nhằm cống hiến nhiều hơn nữa cho nghệ thuật tuồng. Ông lo trước về "hậu sự" của mình, chọn núi Hoàng Mai làm nơi an nghỉ ngàn thu. Ông mất, người nhà theo ý nguyện của ông đã an táng ông tại nơi đây.
Núi Hoàng Mai (Huỳnh Mai), hay còn gọi là núi Đá Vàng, Mai Sơn, nay thuộc thôn Hoàng Mai, xã Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước. Từ huyện lỵ theo trục lộ về hướng Tây Bắc khoảng 1km là tới núi Huỳnh Mai. Mộ Đào Tấn nằm trên lưng chừng núi, ngoảnh mặt hướng Nam nhìn về thôn Vinh Thạnh, nơi ông cất tiếng khóc trào đời, nơi tuổi thơ nhọc nhằn của ông đã đi qua và cũng là nơi ông sống những năm tháng cuối cùng của cuộc đời mình. Tuy thuộc xã khác nhưng nơi ông yên nghỉ chỉ cách nhà ông chưa đầy 2km. Dưới chân núi có con sông Tranh, một chi lưu của sông Kôn từ tháp Bánh Ít ngang qua và đổ ra đầm Thị Nại. Thế mộ nằm vào điểm uốn của sông Tranh, là nơi tụ thủy. Thế đất như vậy, theo thuyết phong thủy, là cát địa. Nhà nho nguyên thâm Đào Tấn hẳn đã có ý tứ khi chọn thế đất này.
Năm 1994, trước tình hình ngôi mộ bị xuống cấp nghiêm trọng sau bao năm dãi dầu nắng mưa lại hầu như không được tu bổ gì, Sở Văn hóa Thông tin, UBND huyện Tuy Phước, UBND xã Phước Nghĩa, Nhà hát Tuồng Đào Tấn đã tiến hành trùng tu ngôi mộ. Về cơ bản việc trùng tu tôn tạo là dựa trên nguyên gốc, phần gia cố thêm chỉ nhằm chống xói mòn và làm bậc từ dưới đường lên đến mộ để nhân dân, khách du lịch lên thăm viếng được dễ dàng.
Mộ xây hình chữ nhật dài 3m, rộng 2m, có bờ xung quanh cao 0,8m, trong đổ đất. Phía trước mộ có bia đề ngày lập mộ, trước nữa là bức bình phong làm tiền án. Phía ngoài mộ là một vòng tường bao dài 10m, rộng 6m, trước có trụ cổng đề đôi câu đối của Hà Đình tướng công, lưng có bình phong kiểu cuốn thư, hai bên cổng và hai bên cuốn thư là hình bốn con sấu được tạo dáng đuôi vểnh lên trên. Nơi đây xưa là cả một rừng hoa, dưới là dòng sông Tranh quanh năm nước chảy, xa xa là bốn ngọn tháp Bánh Ít, phong cảnh ấy, kiến trúc mộ phần ấy toát lên cái tính cách cương trực, cuộc sống thanh bạch, tâm hồn thi sĩ, nghệ sĩ của con người Đào Tấn.
Trong các di tích kỷ niệm về Đào Tấn ở quê hương ông chỉ có ngôi mộ là còn nguyên vẹn. Sau đợt trùng tu năm 1994, ngôi mộ trở nên bề thế và vững chãi hơn. Trước đây việc chăm nom ngôi mộ hoàn toàn do con cháu trong dòng họ đảm nhiệm. Ngày nay các em học sinh ở xã Phước Nghĩa tự nguyện nhận trách nhiệm bảo vệ, tiếp tục tôn tạo, trồng thêm nhiều cây cảnh làm cho khu di tích ngày một thêm xanh tươi.
|