LTS: Theo biên chép của sử sách, ông Nguyễn Tri Phương, quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Hiện nhà thờ và mộ ông có ở đấy. Tuy nhiên, theo gia phả của một tộc họ Nguyễn ở thị trấn Bình Dương (huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định), ông Nguyễn Tri Phương thuộc đời thứ 9, chi 4 và mộ ông hiện táng tại thôn Phú Quang, xã Mỹ Phong, huyện Phù Mỹ.
|
PGS-TS. Nguyễn Thương Ngô và tập gia phả về dòng họ Nguyễn. Ảnh: V.T |
Người khẳng định điều này là PGS-TS Nguyễn Thương Ngô. Ông Ngô là người xã Mỹ Chánh, huyện Phù Mỹ, từ năm 1962 đến 1996, là giảng viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Ông Ngô đã phát hiện ra điều này trong quá trình sưu tầm gia phả cho dòng họ Nguyễn ở Bình Định, một công việc mà ông đã tiến hành từ năm 1999 trở lại đây. Xét thấy những căn cứ mà ông Ngô dùng để khẳng định trong bài viết này, tuy chủ yếu dựa trên gia phả tộc họ và lời truyền tụng trong dòng họ, nhưng cũng có phần hữu lý; đồng thời, cũng với mong muốn tiếp tục nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc, nhất là các nhà sử học, các nhà nghiên cứu, Báo Bình Định xin trân trọng giới thiệu bài viết này.
Bà con ở Bình Dương được truyền lại rằng, trước đây, có một số người từ vùng đất này đã ra làm việc và định cư tại Nghệ An, Thừa Thiên. Một lần, được tin quan quân nhà vua dùng mấy thớt voi chở một quan tài và lương thực, đi đường biển cập vào Bãi Sâu thuộc thôn Xuân Thạnh. Dân làng ra đón và được biết là: “Đây là thi hài ông Nguyễn Tri Phương được đưa về quê nhà chôn cất và gìn giữ”. Quan quân đã đèn nhang cúng bái, canh giữ, thắp hết hai phuy dầu rồi mới rút về. Ruộng nương bị voi đi qua dẫm nát cũng được triều đình đền bù đầy đủ. Từ đó, bà con trong họ giữ kín và cùng nhau bí mật chăm sóc ngôi mộ.
Điều quan trọng là, gia phả tộc họ Nguyễn phái Bình Dương (huyện Phù Mỹ) có ghi “Thủy tổ Nguyễn Đại Lang chi thần, nguyên quán Đại Nam Quốc, Nghệ An, Thừa Thiên, Diễn Châu phủ, Quỳnh Lưu quận, nguyên Hương Cần xã, Càn Niên thôn. Định cư Chánh Thuận thôn Đèo Nhông xứ, tổng Trung Bình, huyện Phù Mỹ, Bình Định tỉnh”. Còn ở phái An Lương - Xuân Phương có tổ là Nguyễn Phúc Ân, em ông Nguyễn Đại Lang, có người ra Thừa Thiên làm việc còn giữ được gia phả ghi rất rõ: “Quán Bình Định tỉnh, Hoài Nhơn phủ, Phù Mỹ huyện, Hòa Lạc tổng, Xuân Phương thôn. Gia cư Thừa Thiên phủ, Hương Trà huyện, Phú Xuân tổng”. Qua đó cho thấy, dòng họ Nguyễn ở Bình Định có nhiều người ra Huế sinh sống và nơi nào đã sống từ ba đời trở lên thì được xem là quê hương. Và hẳn họ tộc ông Nguyễn Tri Phương cũng nằm trong số đó. Như vậy, viết như sử sách cũng không sai, vì sống từ 3 đời trở lên đã có thể xem là quê hương; nhưng có những người ra Huế định cư lâu đời nhưng vẫn xem Bình Định là quê hương mình cũng là xác đáng.
|
Mộ ông Nguyễn Tri Phương ở thôn Phú Quang, xã Mỹ Phong, huyện Phù Mỹ. Ảnh: N.T.N
|
So sánh giữa hai gia phả, gia phả dòng họ Nguyễn ở Bình Dương (Bình Định), ông tổ của chi 4 là Nguyễn Nghĩa có con là Nguyễn Văn Diễn (đời thứ 4); vậy là thiếu 4 đời mới đến ông Nguyễn Tri Phương (đời thứ 9). Trong lúc ấy, theo gia phả họ Nguyễn ở Thừa Thiên, ông Nguyễn Tri Phương có từ đời ông Cố. Như vậy, giữa gia phả hai dòng họ, đã có sự phù hợp nhất định để biết ông Nguyễn Tri Phương vốn gốc là người Bình Định.
Còn việc phải bí mật chôn cất Nguyễn Tri Phương xét ra cũng có cơ sở. Bởi dưới thời phong kiến, để đề phòng bất trắc, nhất là sự trả thù, nhiều vua quan phải giấu kín mộ hoặc dùng mộ giả. Chẳng hạn, mộ các chúa Nguyễn từ Nguyễn Kim về trước đều vậy. Ngay như ở Bình Định, chỉ riêng ông Lê Chất (trong vụ án Lê Văn Duyệt đời Minh Mạng), có tới… 9 mộ. Ông Nguyễn Tri Phương bị thương trước khi mất, nên có đủ thời gian để dặn bảo con cháu đưa về quê nhà, trong khi ở Thừa Thiên vẫn thực hiện mai táng công khai, phải chăng cũng là vì lý do đó.
Nguyễn Tri Phương sinh năm 1800, mất năm 1873, sinh ra tại làng Đường Long, tổng Chánh Lộc, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên.
Xuất thân từ gia đình nghèo làm ruộng và thợ mộc, lại là con cả trong gia đình, nên Nguyễn Tri Phương không ra đời từ khoa bảng, mà với ý chí vươn lên, ông đã làm nên nghiệp lớn. Hồi trẻ, ông làm thơ lại ở huyện Phong Điền, rồi dần dần tiến đến làm thơ lại ở bộ Hộ sau được người tiến cử và vua Minh Mạng đã thu dụng ông. Ông từng làm Thị lang bộ Lễ, Tuần phủ Nam Nghĩa trông coi bố phòng cửa biển Đà Nẵng, Tham tri bộ Công. Sau được cử làm Tổng đốc An Hà (An Giang, Hà Tiên), Tổng đốc Long Tường kiêm Khâm sai Quân thứ Đại thần. Năm 1848, vua Tự Đức phong ông tước Tráng Bá Liệt, sau đó hơn 2 năm, Nguyễn Tri Phương được sung chức Khâm sai Tổng đốc Quân vụ Đại thần kiêm lãnh Tổng đốc các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên. Năm Mậu Ngọ (1858), tàu chiến Pháp đến uy hiếp Đà Nẵng, ông được cử làm Quân thứ Tổng thống Đại thần trực tiếp chỉ huy quân đội chống giặc. Với vũ khí tối tân, Pháp đã phá hủy một số lớn đồn lũy của ta, ông bị triều đình giáng cấp. Năm 1862, triều đình ký hàng ước, Nguyễn Tri Phương được cử ra Bắc làm Tổng thống Hải An Quân vụ. Ngày 19-11- 1873, quân Pháp do Garnier chỉ huy, đánh úp Hà Nội. Ông bị trọng thương và bị giặc bắt. Yêu nước, thương dân, bất khuất trước kẻ thù, Nguyễn Tri Phương đã chọn cái chết để thỏa lòng trung với nước.
| |