Kỳ 1: Đi tìm Phủ Dương Xuân và cung điện Đan Dương trong sử sách
Từ những chỉ dẫn của người xưa
Đi tìm lăng mộ vua Quang Trung là thao thức và trăn trở của nhiều nhà sử học, đặc biệt là những nhà nghiên cứu lịch sử - văn hoá Huế. Một ngày đầu mùa đông năm 1988 nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân rủ tôi lên chùa Vạn Phước với lời dặn: Mang theo máy ảnh và 2 cuộn phim. Hồi đó tôi vừa mới viết xong cuốn sách Thăm chùa Huế, nên nghe nói “lên chùa” tôi nhận lời ngay.
Dọc đường anh Xuân rỉ tai tôi: “Bọn mình sẽ đào thám sát một chỗ, có khả năng đó là lăng mộ vua Quang Trung (?)”. Trong quá trình nghiên cứu những gì có liên quan đến Huế trong sử học, địa lý lịch sử, văn học cổ, khảo cổ học... NĐX phát hiện được nhiều chỉ dẫn quan trọng, tiết lộ lăng mộ vua Quang Trung có tên là lăng Đan Dương; Lăng mộ Quang Trung táng ở bờ nam sông Hương (Hương giang chi nam); Lăng mộ đặt ngay trong cung điện Đan Dương (Cung điện Đan Dương là nơi phụng chúa bảo y tiên hoàng ta - Ngô Thời Nhậm). Trong cung điện của vua chúa có hàng trăm người nên phải có nhiều công trình phụ, giếng nước để phục vụ ăn ở, sinh hoạt; sau khi Đan Lăng bị Nguyễn Ánh triệt phá ít nhất cũng còn lại dấu vết của thành quách kiến trúc bị chôn vùi trong lòng đất...
|
Tượng đài vua Quang Trung tại Gò Đống Đa.
|
Một chỉ dẫn quan trọng khác là khi Phan Huy Ích vào làm việc với Bùi Đắc Tuyên (sau năm 1792) ở chùa Thiền Lâm. Ông Bùi Đắc Tuyên có thói quen ban đêm thức làm việc ban ngày ngủ. Phan Huy Ích cho biết ông không quen ngủ ngày, nên ngồi trong nhà trọ (cũng là một ngôi chùa) giải buồn bèn bày uống rượu và ông cho biết những người khách thân giữ lăng thường đến uống rượu với ông. Như vậy lăng Đan Dương phải ở gần chùa Thiền Lâm-nơi ở và nơi làm việc của vị Thái sư triều Tây Sơn.
Vua Quang Trung mất đột ngột, lúc đó triều đình đang phải đối phó với tình hình chính trị phức tạp: thù trong, giặc ngoài, nội bộ anh em nhà Tây Sơn đang mất đoàn kết. Xây lăng, đắp mộ cho ông là một việc lớn, nhưng phải giải quyết trong điều kiện hoàn toàn bí mật, nếu không giữ được bí mật thì khó tránh được những đột biến khôn lường. Trong tình cảnh ấy mộ vua Quang Trung phải được đặt ngay trong cung điện Đan Dương. Ngày 29-7 năm Nhâm Tý (1792), Ngô Thì Nhậm được cử sang Thanh triều báo tang và cầu phong cho Cảnh Thịnh (Quang Toản). Từ Trung Hoa ông đã viết bài Cảm hoài. Câu 8 bài thơ: “Đan Dương cung điện nhật tam thu”. Bài thơ và lời chú cho biết vua Quang Trung có một cung điện tên là Đan Dương, cung điện này ở vùng núi, sau đó được sử dụng làm lăng cho vua Quang Trung (Sơn Lăng). Vì thế cung điện Đan Dương rất có thể là hành cung của vua Quang Trung? Ngoài Cảm hoài, trong nhiều bài thơ khác Ngô Thì Nhậm cũng nhắc đến Đan Dương Lăng, Đan Lăng như bài thơ Đạo ý có "Vọng Đan Dương”; bài Khâm vãn Đan Dương Lăng. Bài Sóc vọng thị tấu nhạc, Thái Tổ miếu, cung ký có câu: "Đan Lăng thức mục tử vân thâm” (Chốn Đan Lăng ngước mắt, áng tử vân âm u). Bài Tòng giá bái tảo Đan Lăng, cung ký có câu: “Sơn Lăng vạn cổ điện Thần kinh”. Phan Huy Ích cũng đã nhiều lần đề cập đến Đan Lăng. Trong một bài thơ xướng họa với ông anh vợ đồng triều (Ngô Thời Nhậm), Phan Huy Ích tâm sự về nỗi nhớ tiếc cuộc gặp gỡ của hai người với vua Quang Trung, khó lòng tìm được một cuộc gặp gỡ như thế nữa. Ông đã viết một nguyên dẫn với câu: “Khúc Đan Dương ở trước mặt, muôn nỗi cảm hoài". Năm 1799, khi Thái Vũ hoàng hậu Lê Ngọc Hân qua đời, Phan Huy Ích viết điếu văn cho vua Quang Toản, tác giả cho biết triều Quang Toản đã thỏa mãn nguyện vọng muốn được mãi mãi ở cạnh Quang Trung của bà Ngọc Hân, triều đình đã cho táng bà bên cạnh lăng vua Quang Trung: “Nguyện cũ hẳn nay lọn vẹn / Bên Đan Lăng quanh quất mạch liên châu”...
Qua những “chỉ dẫn” của hai cận thần triều Tây Sơn trên đây có thể khẳng định lăng mộ của vua Quang Trung nằm trên vùng núi phía nam kinh đô Phú Xuân lúc bấy giờ. Căn cứ vào đặt tên địa danh của vua chúa xưa và địa hình xứ Huế, gần 20 năm qua Nguyễn Đắc Xuân đã cất công đi tìm toạ độ của Cung điện Đan Dương
Phủ Dương Xuân và cung điện Đan Dương trong sử sách
Nguyễn Đắc Xuân đã tập hợp được khá nhiều tư liệu. Anh đã đặt các thông tin tư liệu cùng một nguồn, một ngành với nhau như Đại Nam Nhất Thống Chí (ĐNNTC) thời Tự Đức và thời Thành Thái, Duy Tân) để xem thử có gì khác biệt không và nếu có thì tự đặt các câu hỏi phản biện? Và, cũng làm như thế đặt các thông tin từ các nguồn tư liệu khác nhau như Phủ Biên Tạp Lục (PBTL) của Lê Quý Đôn và ĐNNTC. Cuối cùng đặt các thông tin lịch sử đã được chỉnh lý vào thực địa của Thuận Hoá - Phú Xuân để xem thử những gì còn, những gì đã mất. Còn thì hiện trạng như thế nào? Mất thì vì sao mất? Ví dụ Phủ Dương Xuân trên gò Dương Xuân từ sau khi chiến tranh với Tây Sơn, ĐNNTC cho biết là đã “mất tích”. Kiến trúc Phủ Dương Xuân vì binh hoả có thể đã bị sụp đổ nhưng địa điểm xây dựng kiến trúc ấy làm sao có thể mất tích được? Người ta cho địa điểm ấy mất tích vì lý do gì? Vì sao các bia lăng chùa Thiền Lâm đều bị mài, đục hết chữ? Vì sao các nhà sư ở chùa Thiền Lâm bây giờ đào bới trong khuôn viên chùa phát hiện thấy hàng ngàn gạch vồ, hàng trăm viên đá tảng dưới lòng đất? Đó là những di tích gì đã bị triệt phá? Địa điểm từng xây dựng Phủ Dương Xuân có liên quan gì đến chùa Thiền Lâm không? Vì lăng mộ vua Quang Trung đã bị triều Nguyễn “tận pháp trừng trị” và cấm thần dân nhắc đến. Vì thế những nhà nghiên cứu thời Nguyễn không dám đả động đến lăng mộ vua Quang Trung, nếu vô tình gặp phải thì tránh, thậm chí có người còn làm nhiễu thông tin, đánh lạc hướng đi. Tất cả những điều khó hiểu đó tập trung lại quanh chùa Thiền Lâm trên gò Dương Xuân. Nguyễn Đắc Xuân phát hiện ra những điều bí ẩn ấy và đã đi đến cùng để giải mã nó. Việc nghiên cứu của anh dò dẫm và công bố từng bước.
Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, ngoài kinh thành Phú Xuân, ở bờ bắc sông Hương, còn có điện Trường Lạc, Phủ Dương Xuân ở bờ nam. Vua Quang Trung chắc chắn cũng có hành cung ở ngoài kinh thành Phú Xuân. Các di tích có liên quan đến nhà Tây Sơn đều bị quan quân nhà Nguyễn phá sạch. Những hành cung ngoài kinh thành Phú Xuân của vua Quang Trung cũng phải chịu chung số phận. Một trong những hành cung ấy của vua Quang có phải tên là Đan Dương. Sau ngày vua Quang Trung mất, cung điện Đan Dương được chuyển làm lăng vua Quang Trung với tên gọi Đan Dương Lăng hay Sơn Lăng, Đan Lăng (lăng đỏ)?. ĐNNTC viết về gò Dương Xuân cho biết hai thông tin: Phía nam gò có đàn Nam Giao; Trên gò có dựng phủ Dương Xuân (thời quốc sơ). Như vậy là phủ Dương Xuân nằm ở phía bắc đàn Nam Giao. Trên bản đồ giải thửa ấp Bình An lập đầu thế kỷ XX, và trên thực tế hiện nay, chùa Thiền Lâm cũng tọa lạc ở phía bắc đàn Nam Giao. Đan Dương lăng nằm gần chùa Thiền Lâm, có nghĩa là cũng nằm gần Phủ Dương Xuân. Theo PBTL thì Phủ Dương Xuân được xây dựng từ “năm Canh Thân (1680)". Lý do xây dựng Phủ Dương Xuân được các sử gia giải thích là để các Chúa ở trong mùa lũ lụt và trong mùa đông, cho nên còn có tên gọi là Cung điện Mùa Đông. Trong PBTL Lê Quý Đôn cho biết: “Ở về mạn thượng lưu bờ nam ngạn, có Phủ Dương Xuân, Phủ Cam. Đi lên phía trên nữa có phủ Tập Tượng... Hơn 20 năm sau, Phan Huy Ích vào Thuận Hóa làm quan dưới triều Tây Sơn, ông ở Huế lâu và ghi chép được nhiều tài liệu về Huế. Những tài liệu đó được con ông là Phan Huy Chú tham khảo trong lúc viết cuốn Dư Địa Chí -trong bộ bách khoa Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí. Sách Dư Địa Chí có một đoạn viết về những cung điện ở bờ nam sông Hương: “Nam ngạn con sông và trên mạng thượng lưu, lại có phủ Dương Xuân, điện Trường Lạc, hiên Duyệt Võ; ấy là những tòa nhà nguy nga, mái đao rực rỡ, có hành lang bao quanh, tường thành vây bọc; cửa ngõ mở thông ra tứ phía, được chạm trổ và trang sức rất công phu... Sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên (ĐNTLTB) soạn từ năm Minh Mạng thứ hai (1821) đến năm Thiệu Trị thứ tư (1844), các sử thần triều Nguyễn có đoạn viết tương tự như của Phan Huy Chú, nhưng không thấy nói gì đến Phủ Dương Xuân. Điều đó chứng tỏ rằng đến thời Minh Mạng (thời viết ĐNTLTB) thì Phủ Dương Xuân không còn nữa (?). Theo Nguyễn Đắc Xuân, ĐNTLTB không nhắc đến Phủ Dương Xuân vì hai lẽ: 1. Phủ Dương Xuân bị xoá vết tích từ đầu triều Gia Long nên không còn nữa. 2. Không nhắc đến Phủ Dương Xuân để cho thống nhất với chủ trương Phủ Dương Xuân bị mất tích từ sau khi binh loạn như ĐNNTC đã viết.
Phủ Dương Xuân qua sử sách Đông Tây là như vậy. Những nét chính của Phủ Dương Xuân mà NĐX tìm kiếm trong thực tế gồm: 1. Có những biểu hiện của một vùng kiến trúc cổ đặc biệt đã bị triệt hạ chôn sâu dưới đất nằm giữa chùa Từ Đàm (Ấn Tôn) và chùa Tuệ Lâm đúng vào vị trí “phía thượng lưu và hơi xa bờ sông Hương một chút”. 2. Khu vực nằm trên gò Bình An (một phần cắt của gò Dương Xuân cũ) đúng vào vị trí bắc đàn Nam Giao. 3. Địa thế chỗ cao (đỉnh gò) còn nhiếu dấu vết móng tường thành, chỗ thấp có hồ bán nguyệt, suối Tiên. 4. Khu vực có biểu hiện nhiều kiến trúc khác nhau như giếng nước, móng tường thành, đá táng cột biểu hiện các cung thất bị triệt hạ, giải hạ rải rác nhiều nơi. Khu vực đó đã bị cấm; cho mãi tới đầu kỷ sau XX quan lại và dân chúng mới đến sinh sống.
Ngoài những nét chính trên, qua khảo sát của Nguyễn Đắc Xuân còn cho thấy các yếu tố cát địa khẳng định cơ sở chính của Phủ có hướng tây bắc - đông nam, phù hợp với tập quán xây dựng cung thất của vua chúa phương Đông. Vì thế có thể yên tâm về địa điểm của Phủ Dương Xuân. Địa điểm phủ Dương Xuân cũng không đến nỗi khó tìm, thế tại sao những người viết ĐNNTC đời Tự Đức cũng như đời Thành Thái - Duy Tân đều muốn cho người đọc sử quên đi (Tự kinh binh loạn kim thất kỳ xứ). Phải chăng Phủ Dương Xuân mất tích vì có liên quan đến Cung điện Đan Dương, Đan Dương Lăng của vua Quang Trung? Từ các cơ sở này tác giả đưa ra ý tưởng của một giải pháp: Phủ Dương Xuân trên gò Dương Xuân là nơi ở của các chúa Nguyễn vào những tháng mùa đông. Sau khi đánh chiếm Phú Xuân, nhà Tây Sơn đã sử dụng Phủ Dương Xuân để làm Hành cung. Về sau sửa chữa trở thành Cung điện Đan Dương rồi lăng Đan Dương. Khi Nguyễn Ánh đập phá và chôn sâu lăng Đan Dương xuống đất thì Phủ Dương Xuân cũ cũng phải mất tích. Chùa Thiền Lâm là một bộ phận của Đan Dương nên bị chuyển địa chỉ trong sử sách, bị mài đục bia tháp để đánh lạc hướng người đi tìm dấu vết lăng mộ vua Quang Trung.
(Còn tiếp)
|