Cùng nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân đi tìm lăng mộ vua Quang Trung
Kỳ 2: Đi tìm Phủ Dương Xuân trên địa bàn ấp Bình An-TP Huế
9:43', 15/3/ 2007 (GMT+7)
Bên cạnh chùa Thiền Lâm, phía trước chùa Vạn Phước có hai ngôi nhà của chị em bà Nguyễn Thị Liên và ông Nguyễn Hữu Oánh.  Nhà bà Liên mang số 10/17 kiệt 120 Điện Biên Phủ, nhà ông Oánh lùi ra phía tây một chút, mang số 9/17 kiệt 120 đường Điện Biên Phủ. Khu vực chung quanh nhà bà Liên và nhà ông Oánh có rất nhiều hiện vật cổ. Khi đào đất làm vườn hay dựng nhà, cụ nội và thân sinh ông Oánh đã bắt gặp ở dưới đất hàng ngàn viên gạch vồ, hàng trăm viên đá lát khổ 30 x 30 cm, dày 4 cm. Những gạch đá này, cụ thân sinh ông Oánh đã dùng để xây tường và lát sàn một ngôi nhà to. Đó là ngôi nhà ông Oánh đã ra đời. Nhưng trong gia đình nhận thấy ở trong ngôi nhà đó không được may mắn, đã có nhiều người chết “bất đắc kỳ tử", nên sau này  ông Oánh đã phá bỏ nhà cũ, toàn bộ đá lát và gạch vồ tặng cho chùa Vạn Phước ở trên đỉnh gò (xế phía tây bắc một chút so với nhà anh Oánh). Chùa Vạn Phước đã sử dùng số đá lát đó lát con đường vào nhà Trai phía bên phải chùa (ảnh 1+ 2).
 

ảnh 1

 

 

ảnh 2

 

Sau lưng nhà anh Nguyễn Hữu Oánh và sau lưng nhà anh Nguyễn Hữu Oanh, ở phía sát với hàng rào chùa Thiền Lâm cũng còn nhiều tảng bê-tông vôi; có nhiều viên đá lót đường thu nhặt từ những công trình kiến trúc cũ đã bị chôn vùi dưới đất từ xưa. Người dân địa phương cho biết ở vùng này trước kia người ta đã đào được hàng trăm viên đá táng cột như thế, trải qua hàng chục năm họ bán dần cho những người thợ làm bia, làm cối. Những viên còn lại, thợ làm bia chê xấu không mua mới đem lát đường. Con đường bọc sau lưng chùa Vạn Phước để đi ra phía tây bắc có nhiều đống giải hạ được vun thành bờ rào phía sau chùa Vạn Phước và phía trước chùa Tịnh Độ. Những đống giải hạ này chứng tỏ nơi đây đã từng có những kiến trúc cổ bị triệt hạ. Nhiều bia mộ của các vị Tổ sư chùa Thiền Lâm bị mài đục, có tháp về sau được sửa chữa viết lại. Có rất nhiều lăng xây bằng đá tận dụng ở khu vực cồn Bông Sứ - ngay trước chùa Vạn Phước. Ở Huế xưa bông sứ chỉ được trồng ở các cung điện, lăng mộ, hoặc nơi thờ tự lớn. Cái cồn này có nhiều gốc Bông sứ cổ chứng tỏ ở đây từng có các cung điện, hoặc là lăng mộ, hay một nơi thờ cúng quan trọng nào đó? Trước năm 1990, ở Cồn Bông Sứ có một ngôi lăng với một tấm bia lớn dựng trên lưng một con rùa bằng đá trắng. Tấm bia đá granit đã bị “mài” nhẵn mất hết chữ. Hiện tấm bia lớn + rùa đá còn dựng ở  sân sau chùa Thiền Lâm. Ở phía tây nam tấm bia + rùa đá chừng ba bốn chục mét có một ngôi lăng hướng về phương nam, rộng 3m, dài 4m, tấm bia lăng (1,1m x 1,1m) ghép bằng ba phiến đá mỏng (ảnh 3).

 

ảnh 3

 

ảnh 4

 

Phía trước lăng có hai cái trụ đá hình chóp thấp, một cái bàn đá nhỏ giống như một cái ghế đá vuông chôn sâu dưới đất. Phía sau lăng có hai khối đá khác, một khối 55 x 35cm, chiều cao có hai cấp, cấp thấp khoảng 30cm, cấp cao khoảng 34 cm (ảnh 3); một khối đá táng cột 45 x 45cm, dày 25cm. Viên đá táng cột này rất đặc biệt, phần khoét giữa mặt đá để kê cột có một hình tròn bị cắt một khúc và đục rộng ra. Chỗ khoét sâu ấy chứng tỏ mặt cắt ngang cây cột kê vào viên đá ấy có một hình tròn và một hình tam giác ghép vào nhau. Ở hai đầu góc nhọn của tam giác có hai đường hoa văn cuốn lên. (ảnh 4). Cỡ viên đá táng 45 x 45cm, lỗ kê chân cột lớn và có hình khối đặc biệt, chứng tỏ nó có xuất xứ từ một cung điện lớn hiếm có. Ngôi lăng này là của thân mẫu Thượng thư bộ Binh - Tiến sĩ Phạm Liệu. Nhờ quyền thế ông Phạm Liệu mới dám góp nhặt “phế liệu đá” tận dụng trong khu vực nầy để xây dựng lăng cho thân mẫu mình. Vì tận dụng nên có nhiều chỗ không đúng kích cỡ cho nên phải trát thêm vôi vữa, một số viên đá quy tập về nhưng không sử dụng hết nên còn để lăn lóc phía sau. Những viên đá đó của cung điện nào? Vì sao nó lại tập trung vào khu vực nầy? Có liên quan gì đến Phủ Dương Xuân “đã bị mất tích” hay lăng Đan Dương “đã bị quật phá” không ?

Về phương diện “cát địa” , lấy địa điểm đào được hàng trăm viên đá lát làm gốc (khu vực nhà anh Oánh và nhà bà Liên làm trung tâm) bác sĩ Dương Văn Sinh - một nhà nghiên cứu dịch học, một thầy địa nổi tiếng ở Huế, đo đạc, tính toán và cho biết khái quát: Trục chính ở địa điểm này ở vị thế “tọa càn hướng tốn”, nghĩa là kiến trúc được đặt vào hướng tây bắc - đông nam. Phía trước có suối Tiên chảy từ trái sang phải, xa hơn nữa (khoảng 3km) có núi Thiên Thai (cũng có tên là núi Hỏa Diệm) làm án. Phái bên tay trái là dãy gò đồi bị đường Nam Giao Tân Lộ (Điện Biên Phủ) cắt ngang thuộc hành mộc (dài) - Tay long. Phía bên tay phải là cồn Bông Sứ, thuộc hành kim (tròn) - Tay hổ. Phía sau là đỉnh gò chạy thẳng xuống bờ sông thuộc hành thủy - Hậu chẩm. Địa điểm này có đủ yếu tố để xây dựng một cơ sở cho các bậc đế vương.

Qua tư liệu, hiện vật, địa điểm “cát địa”, những biểu hiện khác thường ở khu vực này Nguyễn Đắc Xuân tin rằng ông đã tìm ra được Phủ Dương Xuân thời các chúa Nguyễn “bị mất tích” (tức là Cung điện Đan Dương thời Tây Sơn) trong khu vực bên bờ bắc Suối Tiên, phía đông giáp chùa Thiền Lâm, phía tây giáp ruộng Trường Bia, phía bắc giáp chùa Tịnh Độ trên đỉnh gò Phú Xuân.  

Khu vực Cung điện Đan Dương đã rõ ràng, câu hỏi: Đan Lăng ở đâu  có thể xác định nằm trong khu vực Phủ Dương Xuân/ Cung điện Đan Dương ấy. Nhưng địa điểm huyệt mộ táng vua Quang Trung đã bị quật phá cụ thể ở vào chỗ nào trong  khu vực này? Giải pháp cơ bản để trả lời câu hỏi này Nguyễn Đắc Xuân đã đưa ra cách đây 15 năm nhưng các cơ quan khảo cổ học của nhà nước chưa vào cuộc nên ông chỉ dám đặt tên cho công trình nghiên cứu nầy là “Góp một giải pháp vào việc tìm dấu tích lăng mộ vua Quang Trung”. Câu trả lời cuối cùng còn đợi kết quả khai quật khảo cổ học.

  • Thanh Tùng

Hỏi chuyện Nguyễn Đắc Xuân

PV: Vấn đề dấu tích lăng mộ vua Quang Trung đã được các nhà sử học Pháp-Việt, những người có đủ các điều kiện chuyên môn, thời gian, phương tiện, tiền bạc... hơn;  họ đã nghiên cứu từ hơn nửa thế kỷ qua nhưng vì sao họ bế tắc, còn anh thì....

Nguyễn Đắc Xuân (NĐX):  Sử triều Nguyễn viết lăng mộ vua Quang Trung tại “Hương Giang chi nam” (bờ nam sông Hương) - một  vùng đất tương đối rộng. Nhưng hơn nửa thế kỷ qua các nhà nghiên cứu tập trung vào cái lăng Ba Vành, toạ lạc tại rừng thông phía sau  Tu viện Thiên An, thuộc xã Thủy Bằng. Những người có chuyên môn nghiên cứu, có tài liệu, có điều kiện nghiên cứu như Bửu Kế, Lê Văn Hoàng, Đỗ Bang, Phan Thuận An, Mai Khắc Ứng, Trần Đại Vinh, đều chứng chứng minh Lăng Ba Vành là của Lê Quang Đại chứ không thể là lăng mộ Quang Trung. Những người “ngoài nghề” nhưng đầy nhiệt tình như cụ Nguyễn Hữu Đính, thầy giáo dạy Vật lý Trần Viết Điền cố gắng chứng minh lăng Ba Vành là lăng Quang Trung theo cách lý giải riêng của mình. Vì thế các công trình nghiên cứu đã gởi đến các cơ quan nhà nước ở Trung ương (của cụ Nguyễn Hữu Đính) hay đã được UBND Thành phố Huế tài trợ để nghiên cứu (như công trình của Trần Viết Điền) đều được hồi âm bằng sự yên lặng. Sự thực chỉ có vậy.  Với nhiều nguồn tư liệu, tôi sớm tiếp cận được những thông tin về Cung điện Đan Dương và lăng Đan Dương trong văn học cổ của Ngô Thời Nhậm và Phan Huy Ích nên không mất công với việc nghiên cứu lăng Ba vành. Và, một mình một ngựa tôi đi theo con đường tôi tự mở dành riêng cho mình.  

PV: Anh có thừa kế được gì từ kết quả của những người đi trước ?

NĐX: Có chứ. Thừa kế tài liệu và các cách lý giải  chứng minh lăng Ba Vành không thể là lăng mộ Quang Trung của các bậc thầy của tôi là cụ Bửu Kế, thầy Lê Văn Hoàng và cả của các bạn tôi. Nhờ họ mà tôi khỏi mất thì giờ vào chuyện lăng Ba Vành để tập trung vào con đường của  mình.

PV TP:  Con đường của anh như thế nào ?

NĐX: Một sinh viên mới học sử cũng phải biết không có tư liệu thì đừng viết sử. Tôi đã học phương pháp sử trên 40 năm. Con đường của tôi được vạch ra từ tư liệu lịch sử rút ra trong kho tư liệu học Huế của tôi gồm: tư liệu lịch sử, các nguyên chú, chú thích gốc trong văn học cổ thời Quang Trung, địa lý lịch sử, thảo mộc học, ngôn ngữ học, khảo cổ học, tư liệu điền dã và cả  thuật phong thủy. Tư liệu đặt ra cho tôi: Một nơi được xem là lăng mộ vua Quang Trung phải có ít nhất 4  yếu tố: 1. Ở bờ nam sông Hương (nhiều tư liệu đã khẳng định). 2. Ở gần chùa Thiền Lâm  tại ấp Bình An (để các tiểu giám giữ lăng hằng ngày đến chùa Thiền Lâm uống rượu với Phan Huy ích). 3. Phải có biểu hiện là một vùng cung điện. 4. Lăng mộ đó đã bị “tận pháp trừng trị”, đập phá tan nát, chôn sâu dưới đất (theo ĐNTLCB và Đại Nam Liệt truyện sơ tập).  Tôi không đi tìm bất cứ nơi nào không thoả mãn được 4 yêu cầu trên. Đó là con đường của tôi.

PV: Ý tưởng dấu tich lăng mộ vua Quang Trung của anh đã xuất hiện trên báo Bình Trị Thiên từ năm 1988, đã in thành sách năm 1992, nhưng đến nay vẫn  chưa được công nhận, phải chăng anh cũng đang rơi vào bế tắc ?

NĐX: Việc công nhận hay không là của các ngành chức năng. Với tư cách một người nghiên cứu, tôi phải không ngừng hoàn thiện công trình nghiên cứu của mình. Trước đây tôi đề cập đến lăng mộ vua Quang Trung, nhưng tôi lại không có quyền khai quật nên phải chờ các cơ quan chức năng của nhà nước. Tôi chờ đến hơn 15 năm vẫn không thấy động tĩnh gì. Chuyện đó có thể hiểu là bế tắc. Vì thế, để thoát ra khỏi bế tắc, năm nay (2007) tôi tự giới hạn đề tài trong khả năng của mình: Tôi công bố đã tìm thấy dấu tích Cung điện Đan Dương ở ấp Bình An thuộc phường Trường An hiện nay. Khi dấu tích Cung điện Đan Dương được công nhận thì chuyện khai quật để xác định được lăng mộ vua Quang Trung ở đâu là chuyện dễ dàng. Công trình này tôi đã báo cáo ở địa phương và một số nơi, ý kiến của các nhà khoa học gần xa trong 15 năm qua cũng đủ để tôi tin mình đã thành công, đã xác định được khu vực Cung điện Đan Dương thời Quang Trung.

  • Thanh Tùng (thực hiện)

In trang Gửi phản hồi

CÁC TIN KHÁC >>
Cùng nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân đi tìm lăng mộ vua Quang Trung  (09/03/2007)
Số phận trớ trêu với một vị đại thần  (09/03/2007)
Thành Chánh Mẫn và những truyền thuyết dân gian  (06/03/2007)
Chùa Bộc: Nơi thờ vua Quang Trung - Nguyễn Huệ  (04/03/2007)
Người tiếp bước Uy viễn Tướng công ở Bình Định  (02/03/2007)
Nỗi cảm hoài của vị túc Nho   (23/02/2007)
Sứ mệnh văn hóa của sông nước vùng kinh thành xưa ở Bình Định  (22/02/2007)
Đèo Nhông - Dương Liễu: Chói ngời một chiến công  (11/02/2007)
Ông Nguyễn Tri Phương là người Bình Định ?  (09/02/2007)
Vị dũng tướng Cần vương Bình Định  (09/02/2007)
Thành Hoàng Đế  (05/02/2007)
Hoàng giáp Vĩnh Ân và Đồ Bàn thành ký  (02/02/2007)
Ng­ười đảng viên kiên trung  (31/01/2007)
Phủ thành Quy Nhơn  (29/01/2007)
Nguyễn Đăng Tuyển - vị quan thanh liêm đất An Lương   (26/01/2007)