Có lẽ khó có ở đâu mà kinh đô lại được bảo bọc bởi nhiều làng nghề dân dã như ở “đất Vua” An Nhơn, Bình Định. Trăm năm đã qua và rồi ngàn năm sẽ tới, những làng nghề vẫn lặng lẽ sống, hiền lành và cần mẫn như chính nhưng con người nơi đây. Những ngày cuối năm, trời hanh hao, không gian bàng bạc, nắng không đủ vàng nhưng vẫn đủ lấp lánh những bờ tre, lối cỏ… Hãy cùng tôi về đất Vua thăm những làng nghề hàng trăm tuổi…
|
Trên bàn xoay, gốm Vân Sơn vẫn ấm tay người thợ.
|
Gốm Vân Sơn và tiếng vọng thời gian
Rời thành phố Quy Nhơn chừng 20 km về hướng Bắc, đến thị trấn Đập Đá, hỏi làng gốm đất nung Vân Sơn, ai cũng biết. Vân Sơn là làng nghề cổ nhất của Bình Định còn đến bây giờ.
Ngày xưa, trung tâm làng gốm nằm sâu trong xóm An Xuân, thôn Nhạn Tháp, xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn. Nhưng rồi, nguyên liệu ở đó cạn dần, làng nghề dời làng đến vùng nguyên liệu mới, ra phái ngoài việc giao thương cũng tiện hơn. Vân Sơn được hình thành như vậy.
Nắng sớm của một ngày tàn đông lấp lánh trên những rặng cây, những đụn rơm và ấm màu trên những phôi gốm phơi la liệt trên những khoảnh sân trống. Hãy thả bước chân trần trên đường làng. Thử sờ tay mình vào phôi gốm vừa rời tay người thợ xem sao, mát rượi và ấm đến râm ran. Đất đang chuyển mình dưới nắng để tìm đến tên gọi riêng… Hồn của đất đấy.
Những chiếc siêu sắc thuốc bắc xếp hàng, những cái niêu nho nhỏ để kho món cá đồng lao xao bên ngõ, cái trã đất chờ mang hơi ấm ủ trong tro để ấm những gương mặt em nhỏ mới chào đời… Mỗi vật dụng, mỗi một sản phẩm gốm có một số phận riêng nhưng hàng hàng lớp lớp gốm trên sân, dọc ngõ, ven đường gợi cho ta về thời hoàng kim của gốm đất.
|
Làng gốm đất vẫn túc tắc sống, bởi đất với người Việt Nam không chỉ còn là đất mà “đất đã hóa tâm hồn”. Ảnh: PHẠM UYÊN THU.
|
Cứ ngỡ, sang thế kỷ 21 sẽ không còn chỗ cho đồ đất. Ấy vậy mà làng nghề vẫn túc tắc sống bởi đất với người Việt Nam không chỉ còn là đất mà “đất đã hóa tâm hồn”. Chẳng phải vậy mà có những người xa quê, bay cả nửa vòng trái đất vì nỗi nhớ quay quắt niêu cơm đất của mẹ ta lưng còng tóc bạc, những nhà hàng theo lối “hoài cổ” ngày càng ăn nên làm ra.
Lắng tai! Nghe tiếng sôi của siêu nước, tiếng lép bép của nồi cơm đang khô…ta mới cảm nhận rõ hơn về thời gian, cảm nhận về một thời xa xưa khi mà gốm đất có mặt trong hầu hết gia đình Việt, để chúng ta thấy được tiếng vọng lại của thời gian.
Thả bước chầm chậm quanh làng gốm, không dưng tôi lại nghĩ đến những ngọn tháp Chăm. Gốm Vân Sơn khởi thủy ở Nhạn Tháp, liệu những người thợ gốm tài hoa Việt có kế thừa truyền thống sản xuất gốm của người Chăm thuở trước không? Không nhiều thì ít chắc cũng có. Chẳng phải bao đời nay, gốm của làng nghề vẫn mang vẻ đẹp ấm trầm, tươi như màu gạch tháp đấy sao. Gạch xây các tháp Chăm nhẹ xốp và gần như không bị đóng rêu, lên mốc; gốm Vân Sơn cũng có những đặc tính tương tự.
Nghĩ chuyện gốm Việt gạch Chăm, bất chợt nhớ mấy câu thơ của thi sĩ Trần Viết Dũng: “Ta trai Bình Định hơi khô cứng/ Rất thiệt tình phong cách miền Trung/ Ô hay! sông núi sinh người vậy/ Mà sao cứ thấy độ lượng và bao dung”. Gốm Vân Sơn cũng vậy, không cầu kỳ, trau chuốt, nó hồn hậu, chân chất như chính những người dân xứ Nẫu. Nói không ngoa, gốm cứ lặng lẽ sống, lặng lẽ góp phần làm dày thêm những tầng văn hóa Bình Định.
|
Nắng của một ngày tàn đông lấp lánh vàng, ấm trên những phôi gốm phơi ở những khoảnh sân trống. Ảnh: PHẠM UYÊN THU.
|
Khi hương rượu tan trên đầu lưỡi
Rời làng gốm khi đã xế trưa. Mùa này, khung thời gian như hẹp lại, nắng trưa phơn phớt và gió lao xao trên đồng. Về làng rượu nhé, chỉ mươi phút chạy xe máy thôi mà! Thôn Cù Lâm (xã Nhơn Lộc, An Nhơn) - Làng rượu nhỏ, xinh xắn nép mình bên những hàng tre, làng nằm giữa những ruộng lúa xanh mướt thì con gái.
Đến đầu thôn đã nghe hương rượu nồng nàn. “Tới đây thấy lúa đồng đang chín/ Đứng lại nhìn thôn xa khói bay/ Không biết nhà ai đâu nấu rượu/ Thoang thoảng hương mùa đã muốn say (thơ Vũ Hữu Định). Làng vốn thanh bình lại yên ả hơn trong một buổi chiều đông. Những đàn trâu thong thả đi về chuồng, tiếng gà lục cụ gọi nhau, tiếng đàn lợn ụt ịt đòi ăn... Về đến Cù Lâm người ta như vừa chạy một mạch về với làng quê Việt những năm 60, 70 của thế kỷ trước. Hiền lành yên ả.
Rượu nơi đây nặng hơn những nơi khác. Chỉ cần vài hớp là bạn có thể say “lăn cu đơ”, nhưng chỉ sau một giấc ngủ dài khi tỉnh dậy, sẽ thấy nhẹ tênh, không có cảm giác nặng đầu. Có lẽ, chính điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt mà người xứ Nẫu chế nên thứ rượu như thế này chăng? Người Bình Định vốn thô hào, cần mẫn. Họ, chắc không có nhiều thời gian để khề khà. Họ uống đó, như chỉ là tận hưởng một chút rồi lại hối hả đi làm.
|
Rượu chưng cất ở Cù Lâm - quen được gọi là rượu Bàu Đá, hương nồng nàn, trong veo, rót ra lại nghe giòn tan tiếng nước sủi tăm. Ảnh: ĐÀO TIẾN ĐẠT.
|
Người làng rượu bảo rằng, nấu rượu có nghề, chỉ cần lắng nghe tiếng rơi của rượu trong vại sành lúc chưng cất và hương rượu thoáng qua là có thể thẩm định được chất lượng của rượu. Rượu chưng cất ở Cù Lâm - quen được gọi là rượu Bàu Đá, hương nồng nàn, trong veo, rót ra lại nghe giòn tan tiếng nước sủi tăm. Làng như thế, rượu như thế, giữa một ngày như thế, không nhấp môi sẽ đáng tiếc lắm?
Người ta nói, rượu Bàu Đá chỉ thật ngon khi nó được nấu bằng nguồn nước của chính cái bàu cùng tên. Cùng công thức đó nhưng hương rượu sẽ giảm đi nhiều khi nấu bằng nguồn nước khác. Và một điều kỳ lạ là cũng nguồn nước đó, công thức đó, nguyên liệu và con người đó nhưng khi đem chưng cất ở ngoài không gian thôn Cù Lâm thì rươụ cũng mất đi mấy phần ngon ngọt. Phải chăng, ẩm thực của người Việt không thể tách rời với không gian sống!
Rượu Bàu Đá giờ đã có mặt trên mọi miền đất nước, theo chân bạn bè đến cả những miền xa hơn. Nhưng thôn Cù Lâm thì vẫn vậy, dung dị và hiền hòa. Tôi chắc rằng, sẽ khó có gì khoái hoạt hơn bằng một buổi chiều cuối đông, bên lò rượu, cho gió đồng táp vào mặt, khề khà li rượu đang sủi tăm với vài chiếc nem chợ Huyện. Lúc đó, ta sẽ tạm gác lại được những lo toan bình nhật để lắng nghe hương vị cuộc sống thấm dần, thấm dần trên từng mao mạch…
Ánh vàng chợ nón lá
Gọi là nón Gò Găng nhưng không phải nó được làm ở Gò Găng đâu nhé! Phần nhiều nó được làm ở Nhơn Thành, Phú Gia (Cát Tường, Phù Cát), và Gò Găng là nơi họp chợ thôi đấy. Nón Gò Găng có nét đặc trưng riêng. Không quá mềm mại như chiếc nón Huế, cũng không quá “điệu đà” như chiếc nón quai thao. Nó chắc chắn, đủ bền để cùng người đi qua mùa mưa nắng miền Trung.
Chợ nón Gò Găng nhóm mỗi ngày, bắt đầu vào quãng 3 giờ sáng và tan khi tiếng gà sang canh báo bình minh đang đến. Cũng vì thế mà nhiều người vẫn quen gọi đây là “chợ gà gáy”, nghe nhỏ bé, hiền và lành làm sao.
|
Mỗi người một ngọn đèn dầu. Trong đêm, nhìn từ xa, ánh vàng khiến chợ nón như đang trôi bồng bềnh. Ảnh: ĐÀO TIẾN ĐẠT.
|
Đêm đó, tôi xin ở nhờ nhà một bà cụ có thâm niên hơn năm mươi năm làm nón. Cẩn thận lấy báo thức cho mình. Khi tiếng chuông báo thức chưa kịp đổ, tôi lơ mơ nghe tiếng gọi rất khẽ của cụ “Cô ơi! Dậy đi chợ”. Mắt cay xè, vừa nhắm vừa mở, tôi lẽo đẽo theo chân bà ra chợ. Bà cụ đội khoảng ba chục cái nón, vừa đi vừa nói, giọng như lẫn trong màn đêm “Bao năm, cứ ngủ đến giờ này là thức, quen rồi. Hôm nào trời mưa, không đi chợ được là y như năm trằn trọc đến sáng”.
Mỗi người một ngọn đèn dầu. Trong đêm, nhìn từ xa, ánh vàng như đang trôi. Một lúc sau chúng gom lại dần như một điệu vũ. Và chợ thành hình khi ánh vàng tụ lại. Chợ họp ở ngay ngã ba đường. Chỉ khoảng vài chục người mua bán với từng ấy ngọn đèn dầu. Chợ - nhưng không ồn ào, người ở đây biết nhau đã nhiều năm. Trong đêm, không rõ mặt người nhưng cái giọng nằng nặng, ngân nga, những tiếng “sao na”, “dẫy hử” “tời quơi” của người xứ Nẫu chân chất, nghe thương ơi là thương! Cái lành lạnh của sương sớm, cái dáng gày gò của những người phụ nữ thôn quê đổ dài trên nền đất, ánh sáng của ngọn đèn dầu cho ta cảm giác yên bình ngay khi đắm mình trong phiên chợ quê.
Gà râm ran gáy, những người dân quê bắt đầu thổi lửa, đón ngày mới và ra đồng. Lòng thấy chan hòa và dịu nhẹ khi dõi theo những bước chân quầy quả ra về của các mẹ, các chị.
+++
Mươi năm trước, nhiều người cho rằng thời cáo chung của những làng nghề Bình Định đang đến. Làng gốm, làng nón, làng rượu, làng đan, làng khảm xà cừ, làng bún, làng bánh tráng… rồi sẽ chiếm những chỗ trang trọng trong …bảo tàng. Nhưng mọi sự không xấu như thế. Người ta bảo đó là do tỉnh Bình Định có nhiều nỗ lực chấn hưng làng nghề. Nhưng tôi còn tin vào ở sức sống bắt rễ từ những tầng văn hóa trầm tích hàng trăm năm ở đây.
Những niêu cơm vẫn thơm nức hương gạo mới quyện cùng mùi đất nung ở nhiều nhà hàng; hương vị rượu Bàu Đá vẫn dư sức mê hoặc lòng người… Chợ nón vẫn họp và ngày càng có nhiều người tò mò muốn về thăm cho biết. Nhiều phiên, người xem chợ còn nhiều hơn cả người mua bán nón. Cái giản dị, hồn hậu của những làng nghề ở đất Vua Bình Định cứ thầm lặng đan vào cuộc sống, nương theo những dòng chảy mà len tới tương lai.
Trăm năm có lẻ đã qua, và rồi mai này ngàn năm sẽ đến, nhưng dù gì thì ven sông Côn hình bóng vương triều nông dân vẫn cứ cuốn hút người ta đến nao lòng. Úp mặt vào sông ta sẽ nghe được nhịp đập của tim mình. Bạn có muốn cùng tôi một ngày đi dọc làng nghề không?
|