Hoàng đế Quang Trung là nhân vật vĩ đại trong lịch sử dân tộc cuối thế kỷ XVIII, nhưng ông không thể biến những ước vọng cá nhân thành hiện thực; bởi lịch sử chỉ sản sinh một "Quang Trung đại đế", mà không thể tạo nên "thời đại Quang Trung" đúng nghĩa. Âu đó cũng là định mệnh lịch sử đã an bài.
|
Tượng đài Vua Quang Trung
|
Phong trào Tây Sơn mà đỉnh cao là triều đại Quang Trung đã lập nên những chiến công hiển hách trong lịch sử giữ nước của dân tộc, đập tan ý đồ xâm lược của vua Xiêm và nhà Mãn Thanh, bảo vệ vẹn toàn nền độc lập của đất nước cuối thế kỷ XVIII. Đặc biệt, phong trào Tây Sơn còn lật đổ được hai tập đoàn phong kiến cát cứ Trịnh - Nguyễn, lấp bằng "hận sông Gianh" đã chia cắt hai miền ngót hai thế kỷ, tạo nền tảng vững chắc cho công cuộc thống nhất đất nước của dân tộc cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX.
Những thành tựu tốt đẹp trong cả đối nội và đối ngoại, cộng với chính sách cải cách tiến bộ dưới triều Quang Trung, hứa hẹn sự phát triển thuận lợi cho nhà Tây Sơn cùng đất nước. Thế nhưng, cái chết đột ngột của vua Quang Trung năm 1792 đã đẩy nhà Tây Sơn vào sự suy yếu nghiêm trọng, để rồi chấm dứt luôn sự nghiệp của triều đại vào 10 năm sau đó.
Tây Sơn sụp đổ là một nỗi đau của lịch sử dân tộc, rất khó biện giải. Nhưng những điều xảy ra trong lịch sử vốn dĩ đều có căn nguyên; vì vậy, sự sụp đổ của nhà Tây Sơn cũng bắt nguồn từ những lý do của lịch sử, hay nói khác đi là những định mệnh lịch sử.
Những thử thách khó vượt từ phương Nam
Sau chiến thắng thuyết phục trước quân Xiêm ở trận Rạch Gầm - Xoài Mút (1-1875), Nguyễn Huệ đã ngăn chặn được sự hậu thuẫn của một thế lực bên ngoài cho chúa Nguyễn ở Nam bộ; từ đó quân Xiêm không còn ra mặt giúp Nguyễn Ánh.
Nhưng kể từ năm 1787, với sự ủng hộ của một số người Pháp thông qua giám mục Pigneau de Béhaine (tên Hán - Việt là Bá Đa Lộc), tập đoàn Nguyễn Ánh quay trở lại tấn công Gia Định. Thế và lực của Nguyễn Ánh ngày càng mạnh khiến Nguyễn Lữ e ngại, để Gia Định cho Phạm Văn Tham giữ và mang quân bản bộ rút chạy về Quy Nhơn, rồi lâm bệnh qua đời. Mặc dù Phạm Văn Tham nỗ lực chống trả quyết liệt, nhưng vì không được cứu viện, nên vào tháng 9-1788, Nguyễn Ánh chiếm lại được Gia Định.
Phạm Văn Tham rút chạy ra ngoài đơn độc chiến đấu, cố chờ viện binh; nhưng ngày càng vô vọng, vì lúc đó Nguyễn Nhạc chỉ lo phòng bị ở phía Bắc mà không đoái hoài đến việc cứu phía Nam. Thế cùng lực kiệt, tháng 2/1789 Phạm Văn Tham bị Nguyễn Ánh vây chặt, bịt đường ra biển về Quy Nhơn nên đã đầu hàng. Nam bộ lọt vào tay của Nguyễn Ánh từ đó.
Trên vùng đất Nam bộ, khác với nhà Tây Sơn chủ yếu quan tâm hoạt động quân sự và thu thuế, họ Nguyễn đã thi hành một số chính sách nhằm ổn định xã hội, phát triển kinh tế, như chiêu mộ dân lưu tán, cho miễn thuế và tạp dịch, ưu đãi và làm sổ riêng cho người Hoa... Chính sách của họ Nguyễn nhằm vào sự thu phục lòng người, phục hồi và phát triển nông nghiệp, biến Nam bộ trở thành vùng đất đứng chân vững vàng của họ Nguyễn.
Nhân lúc Nguyễn Huệ bận đối phó tình hình Bắc Hà, Nguyễn Lữ lại qua đời, Nguyễn Nhạc bất lực; Nguyễn Ánh từ Nam bộ đánh lấn ra Diên Khánh, Bình Thuận. Nguyễn Nhạc già yếu không cứu được, chỉ lo giữ các vùng còn lại ở Phú Yên, Qui Nhơn, Quảng Ngãi. Áp lực của họ Nguyễn từ Nam bộ ngày càng lớn dần, đẩy nhà Tây Sơn vào thế phải chống đỡ.
Sau chiến thắng quân Mãn Thanh và bước đầu ổn định tình hình Bắc Hà, để trừ họa phương Nam, vua Quang Trung chuẩn bị phối hợp với Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn đem quân vào Nam đánh Gia Định. Nhưng Quang Trung đột ngột qua đời vào 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (1792), công cuộc chinh Nam của nhà Tây Sơn đành bỏ dở, do không còn ai đủ hùng tâm tiếp nối tâm huyết vì quốc gia đại sự của hoàng đế Quang Trung.
Việc làm chủ đất Nam bộ của Nguyễn Ánh ngay trước lúc vua Quang Trung qua đời cho thấy nhà Tây Sơn chưa có chính sách phù hợp với đất miền Nam, thế và lực của Tây Sơn ở đó cũng không đủ mạnh; đặc biệt, Nguyễn Lữ và một phần là Nguyễn Nhạc, không phải là đối thủ của họ Nguyễn. Trong khi đó, họ Nguyễn ít nhiều đã thu phục được lòng dân, đặc biệt là sự ủng hộ của một bộ phận các điền chủ lớn tại miền Nam. Điều đó càng có giá trị lớn cho họ Nguyễn, khi nội bộ nhà Tây Sơn giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ thiếu tập trung đối phó, không có chính sách rõ ràng ở Nam bộ.
Vua Quang Trung ra đi đồng nghĩa đối thủ có khả năng tiêu diệt chúa Nguyễn không còn. Thế lực của Nguyễn Ánh lấn lướt hoàn toàn so với Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn, đồng thời trở thành áp lực đè nặng lên vai của vua Quang Toản bé bỏng và một triều đình không còn minh chủ ở Phú Xuân. Đất Nam bộ trở thành nơi cung cấp nguồn nhân tài và vật lực lớn lao cho họ Nguyễn, là nơi quyết định sự tồn vong của hậu duệ hoàng đế Quang Trung, đồng thời là đất quyết định cả hướng đi của lịch sử dân tộc.
Chính sự rối ren thời hậu Quang Trung
Vua Quang Trung mất, con trai là Quang Toản mới 10 tuổi lên nối ngôi, lấy niên hiệu Cảnh Thịnh, khiến nhà Tây Sơn rơi vào thế suy yếu vì không có người cầm trịch; nội bộ xảy ra tranh chấp, ngoại thích lộng quyền, quyền lực tập trung vào Bùi Đắc Tuyên. Sự tranh quyền đoạt lợi trong nội bộ Tây Sơn quyết liệt đến mức vợ vua Quang Trung là Hoàng hậu Lê Ngọc Hân phải đem con trốn ra ngoài ở với dân chúng (và mất vào tháng 11/1799).
Tháng 9/1793, thừa thế xông lên, Nguyễn Ánh đem quân đánh Nguyễn Nhạc, chiếm Phú Yên, vây thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc không chống nổi liền cầu cứu cháu ruột ở Phú Xuân. Vua Quang Toản sai Phạm Công Hưng, Nguyễn Văn Huấn, Lê Trung, Ngô Văn Sở đem quân vào cứu bác, khiến quân Nguyễn Ánh phải rút lui.
Sau khi bác cháu hợp sức giành thắng lợi, Nguyễn Nhạc liền mang vàng bạc ra khao quân Phú Xuân, nhưng Phạm Công Hưng vẫn chiếm cứ thành Quy Nhơn, kê biên kho tàng. Thấy cơ nghiệp của mình sắp truyền cho con ruột bị cháu chiếm đoạt, Nguyễn Nhạc uất hận thổ huyết qua đời vào tháng 11/1793. Nguyễn Nhạc mất, quân Phú Xuân nhân đó chiếm luôn đất đai, sáp nhập cả Quảng Nam và Quảng Ngãi, rồi an trí con của Nguyễn Nhạc là Quang Bảo ra ăn lộc ở huyện Phù Ly.
Nội bộ Tây Sơn ngày càng thể hiện sự mâu thuẫn, khi vào tháng 6/1795 tướng Vũ Văn Dũng giết Thái sư Bùi Đắc Tuyên, rồi phái Hộ giá Nguyễn Văn Huấn đem quân vào Quy Nhơn giành binh quyền của Lê Trung và Trần Quang Diệu. Lúc này Trần Quang Diệu đang đi đánh Nguyễn Ánh ở Diên Khánh, nghe tin bị nghi oan, đành rút quân về.
Biến loạn nội bộ tạm thời qua đi nhưng chính quyền Tây Sơn ngày càng suy yếu, nghi kị lẫn nhau, khiến một bộ phận tướng lĩnh bất mãn bỏ sang theo Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh nhân cơ đó ra sức mở cuộc tấn công quân Tây Sơn ở nhiều nơi.
Tháng 12/1798, Quang Bảo là con của Nguyễn Nhạc đánh chiếm thành Quy Nhơn, viết thư hàng Nguyễn Ánh. Vua Quang Toản cho người giết chết anh họ, sát hại cả Trấn thủ Lê Trung và Thiếu bảo Nguyễn Đình Huấn. Quan lại trong triều càng chia phe phái chống đối nhau kịch liệt.
Tận dụng cơ hội Tây Sơn chia rẽ nội bộ, tháng 5/1799 Nguyễn Ánh mang đại binh đánh Quy Nhơn lần thứ ba. Lê Chất đem một toán quân ra đầu hàng, thành Quy Nhơn bị vây khốn, các đạo quân ứng cứu của Tây Sơn bị đánh chặn ở Quảng Ngãi, nên tháng 7/1799 Trấn thủ Lê Văn Thanh cũng đem hơn 1 vạn quân và thành Quy Nhơn đầu hàng Nguyễn Ánh.
Tháng 1/1800, vua Quang Toản sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đem quân vào vây thành Quy Nhơn, chiếm lại Phú Yên. Tướng của Nguyễn Ánh là Võ Tánh tử thủ cầm chân hai danh tướng Tây Sơn tại Quy Nhơn hơn một năm. Đến tháng 6/1800 quân Nguyễn Ánh chiếm lại Phú Yên, bãi bỏ sưu ruộng (vào tháng 2/1801) để thu phục nhân tâm ở đó, đồng thời đánh tan thủy quân Tây Sơn ở cửa Thị Nại. Tháng 4/1801 quân Nguyễn Ánh chiếm thêm được đất Quảng Nam.
Nhận thấy tinh binh Tây Sơn đều tập trung cả ở chiến trường Quy Nhơn, nên Nguyễn Ánh mang quân chủ lực vượt biển ra đánh Phú Xuân vào tháng 6/1801. Quang Toản đích thân chỉ huy chống giữ nhưng thua trận, rút chạy ra Bắc, quân Nguyễn Ánh chiếm được Kinh đô Phú Xuân vào 15/6/1801. Cũng trong thời gian này, quân Tây Sơn do Trần Quang Diệu chỉ huy chiếm lại được Quy Nhơn, rồi tiến đánh Quảng Nam, nhưng bị thua lớn ở Trà Khúc thuộc Quảng Ngãi.
Tháng 12/1801, từ đất Bắc vua Quang Toản cùng Quang Thuỳ chỉ huy 3 vạn quân tấn công vào phía nam. Đến tháng 2/1802, Quang Toản vượt qua được sông Gianh, nhưng lại thất trận nặng nề ở cửa Nhật Lệ, quân đội tan vỡ, phải thua chạy ra Bắc, sự sụp đổ của nhà Tây Sơn gần kề.
Từ những thắng lợi liên tiếp đó, tháng 6/1802 Nguyễn Ánh lên ngôi, đặt niên hiệu Gia Long, ban hành 6 điều ân điển tha thuế thóc thiếu của những năm trước, thả tù đang giam giữ, giảm 2/10 thuế sai dư của các hộ biệt nạp và thuế vặt... để thu phục lòng người; đồng thời mở cuộc tiến công ra Bắc.
Tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802), quân Nguyễn lần lượt đánh chiếm Hoành Sơn, Nghệ An, Thanh Hoa, Thăng Long. Trần Quang Diệu dù đã chiếm lại thành Quy Nhơn đầu năm 1802 vẫn phải bỏ thành đem quân ra ứng cứu. Tại Nghệ An, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân cùng nhiều tướng lĩnh Tây Sơn bị bắt; Nguyễn Quang Toản, Nguyễn Quang Duy, Nguyễn Quang Thiệu bỏ thành Thăng Long chạy lên Kinh Bắc rồi cũng bị bắt. Triều Tây Sơn chính thức sụp đổ.
Định mệnh oan khiên của lịch sử
Qua những biến động của lịch sử, có thể khẳng định vua Quang Trung ra đi khi nghiệp lớn chưa thành, thế lực họ Nguyễn có cơ hồi phục ở Nam bộ, nhưng nội bộ Tây Sơn không có người đủ sức cầm trịch tạo thành đối trọng với họ Nguyễn. Do vậy, dù tài năng quân sự của Nguyễn Ánh không bằng Nguyễn Huệ, nhưng Quang Trung quá đơn độc trong hàng ngũ những người đồng sự của mình, không ai đủ sức trở thành lãnh đạo tối cao sau Quang Trung để tiếp nối sự nghiệp, nên những mộng ước của Quang Trung dang dở là điều khó tránh khỏi.
Trong cuộc chiến chống lại Tây Sơn, họ Nguyễn thường chứng tỏ lòng kiên trì, ý chí bền bỉ, kèm thêm may mắn khi nhiều lần thoát nạn trước sự truy đuổi của Tây Sơn. Nhưng bên cạnh đó, họ Nguyễn luôn biết tận dụng cơ hội thu phục nhân tâm bằng những chính sách kinh tế cụ thể và kịp thời ở những vùng vừa đánh chiếm, như ở Gia Định, Phú Yên, Phú Xuân...
Việc làm của họ Nguyễn chưa lớn lao, nhưng đặt trong bối cảnh anh em Tây Sơn bất nhất về chính sách xã hội, thiếu quan tâm tổ chức đời sống cho dân chúng ở Nam bộ và Nam Trung bộ, thiếu sự ủng hộ của nhân sĩ đất Bắc, nên đã dần thay đổi sự tương quan hậu thuẫn của quần chúng giữa hai thế lực. Rốt cùng, tư tưởng tiến bộ của vua Quang Trung đã một phần bị méo mó dưới quyền lực của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Quang Toản và nhiều tướng lĩnh, thân thuộc; dẫn đến hệ quả đánh mất niềm tin của quần chúng.
Dưới triều Quang Toản, yếu tố ngoại thích nổi trội và tư tưởng bất phục giữa các tướng lĩnh ngang hàng nhau cũng là lý do khiến Tây Sơn suy yếu. Nhiều tướng lĩnh Tây Sơn từ bỏ hàng ngũ theo họ Nguyễn; đến mức anh em chú bác ruột cũng tranh giành quyền lực lẫn nhau, dẫn đến sự đầu hàng họ Nguyễn của Quang Bảo. Đó là điểm tận cùng của định mệnh oan nghiệt của lịch sử.
Thêm vào đó, tướng lĩnh Tây Sơn phần lớn nhà võ, nhưng công cuộc trị quốc thường do những văn nhân thời Lê đứng ra giúp sức. Vai trò của vua Quang Trung rất quan trọng trong việc điều hoà mâu thuẫn giữa hai ban văn - võ, nên khi vua ra đi kéo theo cả những mâu thuẫn vốn nhỏ nhặt trở thành lớn hơn. Lề lối cai trị kiểu gia trưởng của Bùi Đắc Tuyên hẳn là mâu thuẫn với quan niệm tổ chức quốc gia theo Nho giáo mà Trần Văn Kỷ thừa hưởng và đã chứng minh là đúng trong thời gian vua Quang Trung trọng đãi ông.
Hoàng đế Quang Trung là nhân vật vĩ đại trong lịch sử dân tộc cuối thế kỷ XVIII, nhưng ông không thể biến những ước vọng cá nhân thành hiện thực; bởi lịch sử chỉ sản sinh một "Quang Trung đại đế", mà không thể tạo nên "thời đại Quang Trung" đúng nghĩa. Âu đó cũng là định mệnh lịch sử đã an bài.
Những đóng góp của triều Tây Sơn đối với dân tộc vô cùng lớn lao, không ai có thể phủ nhận. Vì thế, dẫu kết thúc vai trò trong sự bi thảm bởi những định mệnh oan khiên của lịch sử, thì tên tuổi của Hoàng đế Quang Trung và nhà Tây Sơn vẫn sáng mãi trong trường thiên lịch sử của dân tộc Việt Nam.
.Theo Nguyễn Quang Trung Tiến/ tuanvietnam |