Bắc thành thời Tây Sơn: Những gương mặt tiêu biểu
10:53', 27/5/ 2010 (GMT+7)

Ngô Văn Sở (? - 1795)

Ngô Văn Sở quê ở thôn Bình Thành, phường  Nhơn Bình, thành phố Quy Nhơn, là con của ông Ngô Văn Diễn giữ chức Khinh xạ Vệ úy và bà Nguyễn Thị Mỹ. Ngay từ khi còn trẻ, Ngô Văn Sở là người giỏi võ nghệ và thông hiểu binh pháp. Ông kết nghĩa với Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân trước khi tham gia khởi nghĩa Tây Sơn. Sau đó cả ba người đều theo Tây Sơn và trở thành danh tướng của cuộc khởi nghĩa.

Từ ngày tham gia phong trào Tây Sơn, Ngô Văn Sở trở thành vị tướng tài ba và thân cận của Nguyễn Huệ. Năm 1773, ông tham gia đánh quân Nguyễn trong các trận ở Phú Yên, Diên Khánh, Bình Thuận. Năm 1783, ông theo Nguyễn Huệ đánh Nguyễn Ánh ở Gia Định và tham gia đánh quân Trịnh ở phía Bắc năm 1786.

Năm 1787 , Ngô Văn Sở được cử làm Tham tán quân vụ, cùng Võ Văn Nhậm trấn thủ Thăng Long. Về sau, Võ Văn Nhậm có ý định làm phản nên bị loại trừ (5- 1788). Ngô Văn Sở được cử thay Võ Văn Nhậm làm Đại tư mã, lãnh trấn thủ Thăng Long, trông coi 11 trấn Bắc Hà. Trong thời gian này, các quan chức và tướng lĩnh được giao cai quản Bắc Hà như Nội hầu Phan Văn Lân, Chưởng phủ Nguyễn Văn Dụng, Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, Hộ bộ Trân Thuận Ngôn, Học sĩ Ngô Thì Nhậm đều theo Ngô Văn Sở giữ Thăng Long. Bắc Bình vương Nguyễn Huệ từng tin tưởng giao phó công việc Bắc Hà cho họ và căn dặn: "Sở và Lân là nanh vuốt của ta. Dụng và Ngôn là lòng dạ của ta. Nhậm là bề tôi mới của ta. Nay ta lấy cái việc quân vụ và quốc chính của 11 trấn Bắc Hà ủy thác cho. Ta thuận cho theo tiện nghi mà làm việc, phải hội đồng thương nghị với nhau, chớ vì cũ mới mà xa cách nhau. Đó là điều mong mỏi của ta vậy..." (Đại Nam liệt truyện. Nxb Thuận Hóa - Huế, 1993, tập 2, tr. 513).

Cuối năm Mậu Thân (1788), vua Càn Long nhà Thanh cử 29 vạn quân đo Tôn Sĩ Nghị chỉ huy kéo sang xâm lược nước ta. Trước binh lực hùng hậu của giặc Thanh, Ngô Văn Sở cho đánh cầm chân đích, rồi rút quân về giữ phòng tuyến Tam Điệp (Ninh Bình), cử Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết vào Phú Xuân cấp báo cho Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ đã đánh giá rất cao "nước cờ Tam Điệp" của Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm. Trong cuộc kháng chiến chống Thanh, Ngô Văn Sở được vua Quang Trung cử làm tướng tiên phong đã góp phần vào thắng lợi huy hoàng chống quân xâm lược, giải phóng Thăng Long vào mùa xuân Kỷ Dậu (1789).

Sau chiến thắng quân Thanh, Ngô Văn Sở cùng Phan Văn Lân, Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích được trao nhiệm vụ trấn giữ Bắc Hà. Năm 1790, Ngô Văn Sở được Quang Trung giao cầm đầu sứ bộ gồm có Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích, Võ Huy Tấn, Vô Danh Tiêu, Nguyễn Tiến Lộc, Đỗ Văn Công đưa Phạm Công Trị (người giả làm vua Quang Trung) sang Yên Kinh mừng thọ vua Càn Long nhân dịp 80 tuổi. Vua Thanh đón tiếp hết sức nồng hậu, cũng là một thành công về hoạt động ngoại giao của Ngô Văn Sở. Về nước, Ngô Văn Sở tiếp tục được giao nhiệm vụ trấn giữ 11 trấn Bắc thành cho đến thời Cảnh Thịnh.

Năm 1795, vụ biến ở kinh đô Phú Xuân xảy ra, phe phái do Võ Văn Dũng cầm đầu buộc vua Cảnh Thịnh (tức Nguyễn Quang Toản) bắt nộp Thái sư Bùi Đắc Tuyên. Sau khi dìm chết Bùi Đắc Tuyên, Võ Văn Dũng làm giả chiếu lệnh của Tiết chế Nguyễn Quang Thùy cho người bắt Ngô Văn Sở, cho là phe cánh của Bùi Đắc Tuyên, đóng gông giải về kinh, rồi trên đường đi cho dìm xuống sông.

Đó là cái chết thê thảm của Đại tư mã Ngô Văn Sở do phe cánh thanh trừ lẫn nhau dưới thời Cảnh Thịnh. Ngô Văn Sở trước sau vẫn là một tướng lĩnh tài ba phục vụ hết mình vì sự nghiệp Tây Sơn. Dù sao đối với Thăng Long thời cực kỳ loạn ly ấy, Ngô Văn Sở đã góp phân ổn định trật tự xã hội, yên lòng dân. Việc ông nghe lời Ngô Thì Nhậm rút quân vụ Tam Điệp cũng nói lên một tư cách trọng lẽ phải, không sĩ diện.

Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803)

Tượng Ngô Thì Nhậm tại đền thờ Quang Trung - Quy Nhơn

Ngô Thì Nhậm, tự là Hy Doãn, hiệu là Đạt Hiên, khi nghiên cứu Thiền học lại có đạo hiệu là Hải Lượng, sinh ngày 11 tháng 9 năm Bính Dần (25-l0-1746). ông người làng Tả Thanh Oai (tên Nôm là làng Tó), huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội.

Ngô Thì Nhậm là con trai cả của Ngô Thì Sĩ (1726-1780), một nhà sử học và là nhà thơ nổi tiếng lúc bấy giờ. Thuở nhỏ, Ngô Thì Nhậm được cụ nội (Ngô Trân) và ông nội (Ngô Thì Ức) dạy, sau học thân phụ.

Ông bước vào con đường trước thuật rất sớm. Năm 16  tuổi (1761), dưới sự hướng dẫn của cha, ông đã viết công trình sử học đầu tiên, cuốn Nhị thập tứ sứ toát yếu.

Năm 20 tuổi (1766), ông soạn cuốn Tứ gia thuyết phả và trước đó, năm 1765, ông đỗ đầu thi Hương.

Năm 1769, Ngô Thì Nhậm đỗ khoa Sĩ vọng, được bổ chức Hiến sát phó sứ Hải Dương. Với chức quan hành chính thất phẩm này, Ngô Thì Nhậm chính thức bước vào cuộc đời hoạt động chính trị, mong muốn thực hiện hoài bão làm một hiền thần như Y Doãn!

Nhưng đến cuối năm 1771, Ngô Thì Sĩ mắc tai họa ở Nghệ An và bị cách chức, thì Ngô Thì Nhậm cũng lấy cớ đó mà cáo quan xin về. Năm 1772, ông dự khảo thí ở Quốc Tử Giám, trúng ưu hạng, và cũng năm này hoàn thành tác phẩm Hải Đông chí lược, chép “khá rõ ràng đây đủ” (lời Phan Huy Chú) về nhân vật, núi sông, số dân, thuế lệ của Hải Dương.

Khoa thi năm Ất Mùi (1775), Ngô Thì Nhậm đỗ thứ 5 hàng Tiến sĩ tam giáp. Cùng đỗ khoa này có em rể ông là Phan Huy Ích, và người cùng làng là Nguyễn Nha. Sau khi đỗ Tiến sĩ, ông được bổ chức Hộ khoa cấp sự trung ở bộ Hộ. Năm sau được thăng Giám sát Ngự sử đạo Sơn Nam, rồi lại thăng Đốc đồng trấn Kinh Bắc, kiêm Đốc đồng Thái Nguyên. Chức Đốc đồng một trấn ở dưới chức Trấn thủ một bậc, là một chức phó, có nhiệm vụ tra xét ngục tụng. Lúc này Ngô Thì Sĩ đang làm Đốc trấn Lạng Sơn, một trọng trấn biên giới, và như thế là “một nhà hai cha con thống lĩnh ba trấn và khống chế hai biên thùy”. Cha Đình nguyên, con Tiến sĩ “cha con đồng triều, phụ tử thế khoa”, “nổi tiếng văn chương với thiên hạ, trung thành cố kết với chúa thượng”, thời bấy giờ, đó là điều hiếm có; mà cha con Ngô Thì Nhậm cũng hết sức tự hào.

Từ sau khi Trịnh Sâm lập Trịnh Cán làm thế tử, mâu thuẫn giữa các phe phái trong phủ Chúa ngày càng nghiêm trọng. Trịnh Sâm mất (1782), kiêu binh nổi loạn đưa Trịnh Tông lên làm chúa, khủng bố phe cánh đối lập Ngô Thì Nhậm bị hiềm nghi có dính líu vào vụ án năm Canh Tý (1780) nên phải bỏ về vùng Thái Bình (Sơn Nam) ẩn dật. Thời gian này, Ngô Thì Nhậm làm sách Xuân Thu quản kiến.

Năm 1786, Tây Sơn ra Bắc dẹp tan họ Trịnh, lấy lại quyền bính cho vua Lê, Ngô Thì Nhậm được triều đình mời về phong chức Đô cấp sự trung bộ Hộ, thăng Hiệu thư kiêm Toản tu Quốc sử. Năm 1788. Tây Sơn lại ra Bắc, Lê Chiêu Thống bỏ chạy, Ngô Thì Nhậm được Trần Văn Kỷ tiến cử với Quang Trung, được Quang Trung yêu mến, trọng dụng, phong chức Công bộ Thị lang, tước Tình Phái hầu.

Cuối năm 1788, khi 29 vạn quân Thanh sang xâm chiếm nước ta, Ngô Thì Nhậm là người có công lao lớn đóng góp vào sự nghiệp đại phá quân Thanh. Sau chiến thắng oanh liệt năm 1789 , Ngô Thì Nhậm được Quang Trung giao cho giữ vai trò chủ yếu trong công tác ngoại giao với nhà Thanh.

Năm 1790, Ngô Thì Nhậm được thăng Binh bộ Thượng thư.

Ngày 29 tháng 7 (nhuận) năm Nhâm Tý (1792), Quang Trung mất sau một cơn bệnh đột ngột. Ngô Thì Nhậm được triều đình cử làm Chánh sứ đi sang Yên Kinh báo tang và cầu phong cho vua mới (1793).

Quang Trung mất, Quang Toàn lên nối ngôi lúc mới 15 tuổi. Cái chết đột ngột của Quang Trung làm cho nội bộ Tây Sơn lâm vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Trong tình hình chính trị rối ren của những năm cuối triều đại Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm đã không phát huy được tài năng và tâm huyết của mình như trước. Mặt khác, người hiểu ông, tin cậy trọng dụng ông là Nguyễn Huệ - đã mất. Từ nay, ông cũng như người bạn đồng thời là em rể là Phan Huy Ích cảm thấy mình "như bóng nhạn cô đơn". ông tìm lối thoát trong triết học. Ông lập Thiền viện Trúc Lâm ở phường Bích Câu và nghiên cứu Thiền học. Năm 1796, Ngô Thì Nhậm hoàn thành tác phẩm lớn cuối cùng của mình: Trúc Lâm tông chí nguyên thanh.

Năm 1802, Nguyễn Ánh, sau khi đánh lấy Phú Xuân đã chiếm được Thăng Long. Triều đại Tây Sơn sụp đổ. Gia Long lên ngôi và tiến hành một cuộc khủng bố, trả thù dã man dòng họ Tây Sơn cùng các quan lại của Tây Sơn. Ngô Thì Nhậm, một nhân vật trọng yếu của Tây Sơn bị nhà Nguyễn căm ghét, bắt giam. Ít lâu sau, Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích bị đem ra kể tội và đánh đòn "thị nhục" tại Văn Miếu Thăng Long. Ngô Thì Nhậm "bị đánh chết", theo chính sử (Đại Nam thực lục) của triều Nguyễn. Hôm đó là ngày 16 tháng 2 năm Quý Hợi (9-3-1803), ngày kết thúc bi thảm cuộc đời 57 năm của một con người mà tên tuổi gắn bó với một giai đoạn lịch sử oanh liệt của dân tộc.

Ngô Thì Nhậm là một tài năng lớn trên nhiều lĩnh vực: chính trị, ngoại giao, văn học, sử học, triết học, quân sự... mà lĩnh vực nào cong có những cống hiến xuất sắc, in đậm dấu ấn của một nhân cách hơn người.

Nguyễn Huy Lượng (1750 - ?)

Giả sử như không có một chút tài liệu gì về tình hình kinh tế Thăng Long thời Tây Sơn thì Tụng Tây Hồ phú của Nguyễn Huy Lượng cũng có thể bù được phần nào chỗ khiếm khuyết đó.

Nguyễn Huy Lượng quê làng Phú Thị, nay thuộc huyện Gia Lâm, có thời gian gia đình chuyển cư vào sống ở làng Lương Xá, huyện Chương Mỹ (Hà Tây). Đời Lê Mạt, ông đỗ Hương cống, ra làm một chức quan nhỏ ở Bộ Lễ. Chỉ từ sau khi Quang Trung đại phá quân Thanh, Nguyễn Huy Lượng nhận ra được con đường đúng đắn mà mình phải theo: dứt khoát đi cùng Tây Sơn. ông được triều Tây Sơn giao cho chức Hữu thị lang bộ Hộ, phong tước là Chương Lĩnh hộ, do đó người đời còn gọi ông là Hữu Hộ Lượng. Lúc Nguyễn Huy Lượng viết bài phú cũng là lúc nhà Tây Sơn đã suy vi, Quang Toản đã phải bỏ kinh đô Phú Xuân dời ra đóng đô ở Thăng Long. Vậy mà khi sáng tác, ngòi bút Nguyễn Huy Lượng còn say sưa, bay bổng, tung hoành với chế độ Tây Sơn rất giàu lòng tin yêu đối với chế độ ấy.

Bài phú Tụng Tây Hồ là một kiệt tác của Nguyễn Huy Lượng nói riêng và của văn học cổ điển Việt Nam nói chung. Có người đã đánh giá như sau: "Yêu cầu của thể loại phú nói chung là phải trang trọng, réo rắt, diễm lệ. Nguyễn Huy Lượng đạt được cả ba".

Bài phú này có nội dung chủ yếu là ca ngợi cảnh trí Hồ Tây nói riêng, Thăng Long nói chung và qua đó ca ngợi sự nghiệp hiển hách vẻ vang của triều Tây Sơn. Hồ Tây với tư cách là một phần của kinh đô Thăng Long đã hiện ra thật mỹ lệ:

Sắc rờn rợn nhuộm thức lam xanh, ngỡ động bích nổi lên dòng leo lẻo

Hình lượn lượn uốn vòng câu bạc, tưởng vầng trăng rơi xuống mảnh nhò nho.

Hồ Tây đã ấp ủ bao truyền thuyết thơ mộng và kỳ vĩ, bao dấu vết lịch sử đẹp đẽ và hào hùng: Đền Mục Lang, quán Trấn Vũ, quán Thiên Niên, ghềnh Vạn Bảo, chùa Trấn Quốc... Nhưng quan trọng hơn là tác giả đã cho thấy sức sống của Hồ Tây, của Thăng Long. Đó là cuộc sống lao động cần cù của những người dân ven hồ, cuộc sống đang độ phát triển và chính do những chính sách cởi mở khuyến khích của Tây Sơn mà có. Đó còn là sự phồn thịnh trở lại của các nghề cổ truyền như dệt gấm, ươm tơ, đúc đồng, xeo giấy... là những sinh hoạt kinh tế nhộn nhịp, thuyền buôn tấp nập, chài lưới rộn ràng:

Rập' rềnh cuối bãi Đuôi Nheo, thuyền thương khách hãy chen buồm bươm bướm...

Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng, Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co.

Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ, thoi oanh ghẹo hai phường dệt gấm.

Sen vũng nọ nẩy tiền xanh lác đác, lửa đóm ghen năm xã gây lò.

Và dù là viết về Hồ Tây thì cũng là viết về thành Thăng Long đang "hồi sinh" cùng với thắng lợi của nghĩa quân nông dân.

Tựa bóng hoa đặt quán Quan Ngư, kìa đời Gia Khánh

Đè mặt sóng đem đường Dụ Tượng, nọ thuở Càn Phù.

Thăng Long cũng có những lúc "nổi bụi tiêu tường", "góp phần tang hải". Nhưng từ khi có triều Quang Trung, Thăng Long cũng như cả nước ta như được "sống lại", kẻ thù bị đánh tan, nhân dân được yên ổn làm ăn, núi sông như rửa sạch tủi hờn, cỏ cây cũng được khoe hương khoe sắc hy vọng.

Trước sau Nguyễn Huy Lượng vẫn tán dương sự nghiệp của Tây Sơn, vẫn bày tỏ lòng trung thành đối với chế độ này vì chế độ này chính nghĩa.

Cho nên với bài Tụng tây Hồ phú ta có thể nói rằng Nguyễn Huy Lượng là người đã vận dụng thể phú để sáng tạo nên một công trình cao hơn rất nhiều tầm cỡ một bài phú cổ điển thông thường. Hai nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi và Phương Tri đã có lý khi nhận định rằng bài phú này đã là "một bức bích họa về Hồ Tây từ trước chưa từng có, đồng thời cũng là một thiên sử ca tương đối quy mô về Thăng Long, mà cái ý nghĩa quý giá nhất, là nó đã được trực tiếp xây dựng nên dưới ánh sáng của phong trào nông dân khởi nghĩa, tiếp thu được đến chừng mực nào đó cái âm hưởng lạc quan đầy phấn khởi do một phong trào nông dân lớn nhất trong lịch sử mang lại. Với ý nghĩa là một áng sử ca, nó là những lời ca ngợi chân thành chiến công cứu nước của Nguyễn Huệ, chiến công có ý nghĩa đổi đời cho Thăng Long, và rộng ra là cả xã hội Việt Nam. Với ý nghĩa là một bức họa, phần nào đã ghi lại những khung cảnh sinh hoạt tươi đậm của Thăng Long dưới triều Tây Sơn". Minh đô sứ cũng có ghi lại một chi tiết lý thú góp phần nói lên giá trị của bài phú này: "Nguyễn Huy Lượng hiến Tây Hồ tụng, Nhân tranh truyền tả, đô hạ vị chi chỉ quý". Nghĩa là: 'Nguyễn Huy Lượng dâng phú Tụng Tây Hồ. Người ta tranh nhau truyền chép, ở kinh đô giấy quý hẳn lên".

Tới Mậu Thân từ rỡ vẻ tường vân, sông núi khắp nhớ công đắng địch

Qua Canh Tuất lại tưới cơn thời vũ, cỏ cây đều gội đức triệm nhu.

Mậu Thân là năm 1788, năm Nguyễn Huệ lên ngôi vua. Canh Tuất là năm quân đội Tây Sơn tiêu diệt hết bọn làm loạn trong nước và bọn khiêu khích ở biên thùy.

Rõ ràng Tây Son đã làm cho đất nước "rỡ vẻ tường vân", "tưới cơn thời vụ', tức rực rỡ mây lành, thấm đượm mưa nhuần. Dưới triều đại này, khắp nơi vui vầy, thanh bình:

Bãi cỏ non trâu thả, ngựa buông, nội chu đã lắm dưới ca ngợi

Làn nước phẳng kình chìm, ngạc lặn, ao Hán nào mấy trẻ reo hò.

Thật là một niềm hồ hởi, lạc quan. Cho tới cuối bài phú, vẫn mãi một niềm vui say không giảm, vẫn hy vọng, dù tiếng súng của Nguyễn Ánh đã vang dội ra Bắc Hà.

Chỉ với bài phú này, Nguyễn Huy Lượng cũng xứng đáng là một nhà văn tiêu biểu của nền quốc văn tiến bộ thời Tây Sơn, xứng đáng cổ một vị trí trong nền văn học cổ điển Việt Nam nửa sau thế kỷ XVIII.

Theo Lịch sử Thăng Long- Hà Nội, Nguyễn Vinh Phúc (cb), Lê Văn Lan, Nguyễn Minh Tường, NXB Trẻ, Tp.HCM, 2005.

.Theo Báo Tuyên Quang

In trang Gửi phản hồi

CÁC TIN KHÁC >>
Bộ xương của người rừng   (24/05/2010)
"Vương quốc" của người Việt cổ  (21/05/2010)
Về Pác Bó nghiêng mình trước Bác  (19/05/2010)
Tính cách núi  (17/05/2010)
Đền Hùng - Quốc tổ cuối trời nam  (16/05/2010)
Nghệ nhân Lâm Phen: Người giữ hồn văn hóa Khmer   (13/05/2010)
Ông già hơn 50 năm sưu tập tài liệu về Bác Hồ   (11/05/2010)
Công nhận di tích lịch sử lăng mộ Tiến sĩ Mai Thế Quý   (09/05/2010)
Đại tướng Võ Nguyên Giáp- Người làm thay đổi lịch sử  (07/05/2010)
Nhà thờ Bác ở vùng sơn cước  (05/05/2010)
Đội Hoàng Sa - từ lịch sử đến tâm thức dân gian  (28/04/2010)
Lễ hội Mai An Tiêm   (27/04/2010)
Bài 2: “Đánh thức” di sản ngủ quên  (26/04/2010)
Bài 1: Bức tường xếp đá hoàn hảo  (25/04/2010)
Từ kinh đô Văn Lang đến Thăng Long - Hà Nội  (20/04/2010)