Bình Định là tỉnh có nhiều di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh. Vào giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX đã có nhiều nhiều trang du ký của các tác giả như Linh mục J. B. Hướng, Trần Quang Hoàng, Mẫu Sơn Mục N.X.H… in trên Nam Kỳ địa phận, Tạp chí Nam Phong… viết về miền quê thuộc vùng Nam Trung Bộ này. Ở đây chúng tôi nhấn mạnh thêm thể tài du ký với ý nghĩa những trang ghi chép về các chuyến du ngoạn, những chuyến tham quan, du lịch được viết dung dị theo cung cách văn chương hồi đầu thế kỷ.
Trong bài viết Đi viếng cung thánh Đức Mẹ Lavang, Linh mục J. B. Hướng khi đi ngang qua Bình Định đã phác vẽ quang cảnh và cuộc sống người dân xứ nam Trung Bộ: “Thiên hạ làm ruộng làm rẫy, lập vườn trồng cau, dừa. Vườn và ruộng mấy tỉnh ngoài nầy sánh với Nam Kỳ không đặng, không có đám ruộng nào đi luôn cho tới bảy tám trăm mẫu, vườn cũng vậy; thưa thớt lãi rãi vậy mà thôi. Bề thế làm ăn thật rất cam go, địa cảnh thì tốt, song địa cảnh thì nuôi con mắt chớ không nuôi bụng đặng” (Nam Kỳ địa phận, số 745 – 1923)…
|
Khu Lăng mộ Võ Tánh (một vị tướng của nhà Nguyễn) bên trong thành. |
Vài ba năm sau, ký giả Trần Quang Hoàng – có lẽ là quan chức ngành giáo dục – đã đến thăm khu di tích Bàn Thành và đền Hiển Trung (nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, cách thành phố Quy Nhơn 27 km về phía bắc). Ngay sau đó, Trần Quang Hoàng đã kể lại chuyến du ngoạn trong bài viết Bài ký chơi Bàn Thành và đền Hiển Trung trên tạp chí Nam Phong (số 116, tháng 4.1927. Tuyển in trong Du ký Việt Nam – Tạp chí Nam Phong, 1917-1934, Tập II. Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, giới thiệu. NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2007, tr.294-302)...
Mở đầu bài ký, tác giả nêu rõ nguyên cớ chuyến đi: “Tôi từ khi được đổi về tỉnh Bình Định là nơi quê hương này, vẫn biết là một chỗ nhiều danh lam cổ tích nên cứ ước ao làm sao cho tai được nghe, chân được bước đến những nơi dấu xưa tích cũ của ông cha ngày trước, tưởng tượng làm sao cho mắt được nhìn, tay được vẽ ra những chỗ cảnh đẹp sắc xinh của non nước đất nhà, lòng đã đinh ninh, thường vẫn hẹn hò, nay nhân đầu năm Bính Dần, thiều quang chín chục vừa mới năm mươi, là ngày lễ bái hưu hạ, ký giả cùng mấy ông bạn là ông đốc và các ông giáo trường Phù Cát, rủ nhau đi chơi thăm thành Đồ Bàn và đền Hiển Trung. Trước khi thuật chuyện đi thăm Bàn Thành và đền Hiển Trung, thì tưởng phải nên thuật qua cái lịch sử của thành và đền ấy, mới có ý vị có hứng thú, mà càng xem thì lại mới càng có cảm tình”...
Khác với kiểu bài du ký thuần túy viết về một chuyến đi, Trần Quang Hoàng chủ ý thâu thập các nguồn tài liệu để tái hiện lại lịch sử thành Đồ Bàn từ thời cổ sơ đến thời cận đại, đặc biệt chú ý đến các sự kiện và con người nổi danh một thời: “Nước này thành này, đánh được nhà Trần, bị nhà Lê phá đi, rồi Tây Sơn dựng lại, đến quốc triều ta năm Kỷ Tỵ đức Gia Long đánh lấy được thành mới đổi đặt tên là thành Bình Định, mệnh ông Hậu quân Võ Tánh và ông Lễ bộ Ngô Tùng Châu trấn giữ thành ấy, quân Tây Sơn nào đắp lũy đóng đồn cả bốn phía, nào mộ lính chiêu tài đến mấy mươi muôn, lắm lúc vây hãm, ghe phen đánh phá mà hai ông ấy vẫn một lòng gìn giữ, không chút đơn sai, qua năm Canh Thân hai ông làm tờ mật biểu nói: Tây Sơn đang vây đánh thành Bình Định, vua nên nhân thế đánh lấy cựu kinh. Lúc đó có vợ người Phan Văn Hán tên là Nguyễn Thị Giả khẳng khái xin đem biểu đi, giữa đường bị giặc bắt được, tra khảo gì cũng không nói, nhảy xuống sông mà chết. Sau lại sai người cai đội đem biểu ấy đến dâng cho vua. Năm Tân Dậu thành bị vây đã ba năm, lương thực hết cả, vua Gia Long nghe vậy nói với các tướng rằng: Thà mất thành, không nên mất người lương tướng; vua sai người mang thợ lặn nước đem vào bảo ông Võ Tánh bỏ thành kiếm đường trốn ra họp với quân nhà vua. Ông Tánh trả lời xin chịu chết giữ thành, khuyên vua nên nhân đánh lấy thành Phú Xuân (tức là thành Huế bây giờ). Rồi ông Tánh sai quân lính kiếm cây củi chất dưới lầu Bát Giác, nói với ông Ngô Tùng Châu rằng: Lương thực hết, thế cùng rồi, thành phải mất, tướng sĩ phải bị thương, ông là kẻ văn thần nên chờ mạng vua. Ông Ngô Tùng Châu đáp rằng: “Thành còn thì đều còn, thành mất cũng đều mất, tướng quân biết vì nước mà chết nạn, Châu này lại không biết làm tôi chết trung hay sao”. Bèn về dinh uống thuốc độc mà chết. Ông Tánh coi liệm chôn xong, mặc đồ triều phục vào trông về phía bắc lạy, rồi lên lầu Bát Giác lấy lửa tự đốt, lúc đó có một người đầy tớ tên là Nguyễn Tấn Huyên cũng nhảy theo vào lửa mà chết. Sau khi vua Gia Long đã nhất thống đại định rồi, làm lễ tế hai ông ấy và tướng sĩ… Rồi vua Gia Long sắc lấy chỗ lầu Bát Giác ấy xây mộ ông Võ Tánh, ban cấp phẩm vật cho bà con người cai cơ Nguyễn Tấn Huyên và lập đền tại chỗ trước lầu Bát Giác ấy để thờ hai ông Võ Tánh và Ngô Tùng Châu, tức là đền Hiển Trung hay Chiêu Trung”…
Có thể nói toàn bộ đoạn văn trên mới nhằm gom góp tư liệu và kể lại sự tích, lai lịch ngôi đền mà chưa nói gì tới chuyến du ngoạn. Chỉ sau khi khảo tả, giới thiệu đầy đủ nguồn gốc và ý nghĩa ngôi đền thì tác giả mới trực tiếp kể về chuyến đi, rõ rệt từ ngày tháng đến cách thức tổ chức và những điều tai nghe mắt thấy. Trước hết là toàn cảnh khu thành: “Đối với thành này miếu ấy chúng tôi vẫn đã có mối cảm tưởng sâu xa, nên cuộc đi chơi này lại càng sốt sắng, sớm ngày 2 tháng 4 năm 1926, ông Đốc và các ông giáo ấy đề họp tại nhà tôi, người có xe nhà, kẻ mướn xe thuê, nào ngựa cỡi, nào xe đạp, cùng nhau lũ lượt một đoàn ra đi, khi ấy vừng đông vừa rạng bóng ác vàng, ngọn cỏ còn nhuốm mùi sương bạc, chúng tôi lần lần xuống thấp lên cao, qua cầu vượt bãi, gần một giờ đồng hồ trải qua một đoạn đường quan từ huyện lỵ Phù Cát đến chỗ quán Đốc chừng hơn 9 kilomètres. Chỗ quán Đốc có con đường rẽ về phía tây, đường này quanh co bụi bờ, ngựa trèo thì dễ, xe đi hơi khó, đi được hơn một kilomètres, qua một tần núi đất, hỏi ra ấy là cửa tả môn của Bàn Thành đó, chúng tôi nhìn xem chỉ thấy có đường đi vào, thế là biết dạng cái cửa thành xưa, chứ chẳng còn dấu tích gì nữa,vì xét ra sách chép năm Gia Long thứ mười hai, người ta đào lấy hết đá gạch thành này đem xây tỉnh thành Bình Định bây giờ… Đi qua tầng ấy lại đến một hòn núi đất cao hơn, hỏi dân xứ này gọi là núi Mã Tiên, trên đỉnh núi này có một tòa cổ tháp của Chiêm, tháp cao hơn mười thước tây, xây toàn bằng gạch, hình tháp vuông, chỉ phía trước mặt có cái cửa lớn, còn ba bề bít cả, xung quanh tháp có trổ những hình dài như câu đối, vuông như tấm ngói, nhọn như nóc nhà, những hoa lá cũ kỹ và những chữ của Chiêm, trên đầu tháp hình hơi nhọn nhọn, hai bên đầu tháp có trổ những hình như cái nóc nhà nhỏ nhỏ, tiếng tây gọi là lucarne, trên những nóc nhà nhỏ ấy, lại có trổ lắm hình như rìa cờ, như lông chim, đứng xa trông thấy như những cái cánh chim, nên tục gọi tháp ấy là tháp Cánh Tiên, cách kiến trúc tháp này tuy thì sơ sài mà xinh xắn, ngó thì đơn giản mà công phu, thật rõ là một nền mỹ thuật văn hóa của đời cổ sơ… Đứng trên núi Mã Tiên có thể nhìn gần khắp cả bốn phía thành, hình thành tuy hơi vuông mà khuất khúc, lúc ẩn lúc hiện, thật là hiểm trở, thành chỉ còn dấu đất dưới chân mà cao cũng đã hơn mười thước tây, thành rộng hơn mười mẫu tây (hectare), thành cách tỉnh thành Bình Định bây giờ chừng bốn kilomètres. Chúng tôi leo trèo theo quanh khắp dấu chân thành, thấy thành còn dạng năm cửa, phía trước hai cửa, bên tả một cửa, tức sách chép là Tân Khai Môn, bên hữu và sau hai cửa, tức là Vệ Môn cùng Cựu Nam Môn. Trước mặt thành có dãy núi Long Cốt, bên tả vực Bao Liệt, bên hữu núi Phong Sơn, sau lưng có nguồn Thạch Tân, trông xa ra nữa thì phía nam là núi Dương An cao ngất nghìn trùng, dài hơn trăm dặm, có đèo Cù Mông chập chồng ngoắt nghéo, phía bắc có núi Bồ Chinh, núi Thạch Bàn, to lớn lạ thường, phía tây dãy núi Trụ Lãnh cao thấp nghìn ngọn núi xanh, phía đông là cửa bể Thi Nại (tức là cửa Giã hay Quy Nhơn ngày nay) nhấp nhô một vùng bể trắng, đứng mà xem đi ngắm lại cho kỹ, thật là một nơi dụng võ hiểm cứ vô cùng, một cái thành vàng vững chắc đáo để, nên cũng có nhờ thế mà thành bị vây ba năm mà giữ gìn chắc được”...
Khi tường tả lại cuộc du ngoạn, Trần Quang Hoàng thường có thêm những lời bình luận trữ tình ngoại đề, thêm cả bài thơ đề vịnh theo lối các nhà nho xưa và nhận xét cụ thể, chi tiết:
“Nhân dạo xem khắp thành rồi, thấy cảnh sinh tình, tôi bèn ngâm một bài rằng:
Cùng nhau dạo khắp Bàn Thành,
Thấy cảnh càng sinh mối cảm tình.
Cảm cuộc bể dâu đau đớn nhỉ,
Cảm hồi chiến đấu nghĩ càng kinh!
Được Trần Lê được là ai chủ?
Thua Nguyễn Nguyễn thua biết mấy binh!
Thua được được thua quyền Tạo hóa,
Muôn đời không lấp dấu uy linh.
Tôi ngâm xong lại lấy bút ra vẽ một bức cảnh có đoạn thành và tháp Cánh Tiên ấy, vẽ xong cùng nhau leo xuống thành để đi vào đền Hiển Trung. Xuống thành rồi thấy trong thành nhan nhản những đám đậu đám mè, đám ngô đám mía, trong thành phía đông nam nhân dân ở cũng khá nhiều, chúng tôi bèn rủ nhau đi tìm kiếm lấy một vài ông cụ già trong làng ấy, để hỏi thăm may có biết thêm được chuyện xưa tích cũ gì nữa chăng”...
Ngay sau đó tác giả tả lại quang cảnh khu đền và khi bước vào trong trong ngôi đền:
“Đền ở giữa thành, ngoài có một lớp thành cao độ chừng vài thước tây, vuông vức rộng chừng một mẫu tây, có ba cửa: tiền và tả hữu, đều làm ở chính giữa lớp thành ấy, phía trước đền ngoài lớp thành ấy cách chừng năm chục thước tây có hai con voi bằng đá, mỗi con to bằng con voi thật, con bên hữu thì lối điêu khắc của ta, còn con bên tả thì cách điêu khắc của Chàm, cả hai con đều có dấu mòn và sức xể, thật rõ là một vật rất xưa. Trước sân đền hai bên có hai cái nhà nhỏ nhỏ, hình như thờ các hàng sĩ tốt thì phải, và có những vầng cổ thụ cao mấy trăm thước, lá lảy rườm rà, da vỏ xù xì đóng rêu mốc thếch, gió đưa những nhành lá cây ấy, làm cho trong trí chúng tôi tưởng tượng như giọng quân của vua Lê đương reo đuổi người Chiêm, ngọn cờ của chúa Nguyễn đương giong dẹp giặc Tây Sơn. Sau lưng đều cách chừng hơn mười thước tây là mộ của Võ Tánh, ấy là chỗ cái lầu Bát Giác ngọn lửa thiêu người nghĩa khí ngày nọ.
Chúng tôi vào ngồi nghỉ nơi nhà người giữ từ một hồi lâu, rồi mới bảo người ấy đem lên mở cửa đền cho vào chiêm bái. Đền làm lối cổ, tuy không hoa hòe lắm mà chắc chắn, người giữ từ mở cửa rồi chúng tôi bước vào, thấy gian chính giữa trên có bức biển đề ba chữ “Hiển Trung từ” bên hữu bức biển có mấy chữ “Gia Long kiến tạo”, bên tả mấy chữ “Tự Đức trùng tu”, màu sơn lối chạm tuy đã cũ mà nét vàng vẫn đương sáng chói. Án chánh giữa trong có một cái khám sơn son thếp vàng để trên cái bệ vôi, trong khám ấy tôn trí hai cái bài vị của ông Võ ông Ngô, hai gian gần đó cũng đều có hai cái khám hơi lớn hơn, thờ các hàng tướng sĩ, hai gian ngoài nữa thì có hai dãy bài vị để trên hai dãy bệ vôi dài, trở mặt qua với nhau, là thờ các hàng quân lính, những đồ thờ cũng đều là vật thường quá, lại thêm bụi bám bẩn thỉu, không có cái gì là quý trọng cả”...
Xem đến đây Trần Quang Hoàng phát biểu cảm tưởng tỏ ý chê trách người nước Nam ta còn thiếu ý thức bảo tồn cổ tích, nhân đó tiếp tục làm thơ đề vịnh, họa cảnh đền và chụp ảnh kỷ niệm:
“Lại có một điều chúng tôi lấy làm lạ lắm, là một cái đền thờ những vị trung thần nghĩa sĩ như thế này, mà sao không hề có một câu đối hay bức hoành gì, gọi là của người đời sau xưng tụng cái công đức, biểu dương cái chí khí của người đời trước cả! Ôi! Nếu hai ngài này mà có cái thế lực hay phò trì huyền diệu như những cậu quận cô nương kia, thì cái đền thờ này nào là lễ vật hương hoa, nào áo xiêm trướng liễn đồng bóng tưng bừng, lạy vang rộn rịp, nào có phải vắng vẻ lãnh đạm chỉ hai cái bài vị với cái đền chống vổng như thế này đâu! Ôi! Nếu hai ngài là kẻ trung thần nghĩa sĩ của một nước văn minh Âu Mỹ, thì cái đền thờ này nào là tượng đồng bia đá, nào tranh vẽ hình chụp, khi kẻ đời sau có qua chơi thăm cũng được cung chiêm cái dung dạng, cái khí phách của các ngài, nào có phải chỉ trông thấy mấy cái bệ vôi và mấy bát nhang tàn như thế này đâu! Chúng tôi vòng tay đứng cung chiêm một hồi rồi bước đến trước án làm lễ bái ba cái, gạt nước mắt mà lui ra. Tôi nhân cám cảnh xúc tình có ngâm một bài thơ (…).
Ngâm song lại lấy bút ra vẽ qua cái cảnh đền thờ, rồi mới cùng nhau ra thăm mộ ông Võ. Trước mộ có hai con kỳ lân hay là nghê bằng đá to bằng con bò lớn, cách điêu khắc rất cổ, rõ là một vật xưa của Chiêm. Xung quanh mộ có lớp nền cao gần thước tây, trên nền có thành cao hơn thước tây, vuông vức rộng chừng một trăm thước vuông (mètre carré), đi xung quanh ngoài lớp thành ấy thấy đường còn cái dấu chân nền lầu Bát Giác khi xưa. Bước lên nền thấy giữa có ngôi mộ xây hình như con quy nằm, to bằng nửa cái rương sập, nhưng trên mộ lại trổ hình nửa cái hoa sen búp, thật là một kiểu cổ sơ. Phía bên hữu dưới chân mộ lại có một ngôi mộ nhỏ, xây vuông bằng chiếc chiếu, cao chừng hơn một tấc tây, ấy là cái mộ của người nghĩa bộc cai cơ Nguyễn Tấn Huyên đó. Chúng tôi đứng đó tần ngần trót một giờ lâu, trong tâm trí thấy hình như ngọn lửa vô tình kia đương bừng bừng đốt cháy ông Võ đâu đó, rồi xụt xùi bước đến trước mộ làm lễ bái ba cái mà lui ra.
Ra trước mộ sắp nhau chụp một bức ảnh để làm vật kỷ niệm, chụp xong thì xem ra chim én đã bay về tổ, bóng chiều đà xế non tây, chúng tôi gọi người giữ từ đến cho mấy giác bạc, rồi cùng nhau lũ lượt thơ thẩn ra về”...
Kết thúc thiên du ký, tác giả thêm một đoạn vĩ thanh kể về niềm thao thức, ngậm ngùi sau một ngày đến thăm khu đền và nêu lý do của việc viết bài:
“Về đến nhà đồng hồ đã hơn sáu giờ chiều, cơm nước xong rồi, song trong trí tôi vẫn cứ bồi hồi nghĩ ngợi, nhớ thành lúc nọ, cảm người lúc kia, đêm xuân trằn trọc, giấc điệp bâng khuâng, ngồi dậy chống tay với ngọn đèn mờ xanh đỏ cho đến suốt đêm dài, bèn lấy giấy bút ra chép bài này gọi là tỏ chút tình cảm tưởng đối với thành với miếu ấy và là một vật kỷ niệm trong cuộc đi chơi thăm này”...
Hai năm sau, tác giả Mẫu Sơn Mục N.X.H có bài Lược ký đi đường bộ từ Hà Nội vào Sài Gòn (Nam Phong, số 129, tháng 5.1928). Đây là một bài du ký trường thiên chép việc tác giả đi chơi bằng ô tô từ Hà Nội qua Huế, Nha Trang, vào Sài Gòn, lên Đà Lạt rồi ngược trở ra Hà Nội… Đoạn viết về xứ Bình Định mới chỉ là những quan sát bước đầu, phác thảo toàn cảnh ngắn gọn:
“Dải đất Trung Kỳ đến tỉnh Quảng Ngãi hơi mở rộng, cánh đồng đã to, có chỗ tốt lắm, giồng nhiều mía, cho nên tỉnh này xuất sản nhiều đường cát. Hết tỉnh Quảng Ngãi thì vào địa phận hạt phủ Mỹ, phủ Cát, thuộc tỉnh Bình Định; địa thế mấy phủ này hình như một cái thung lũng lớn. Phía trong thì dải núi Tràng Sơn, phía ngoài giáp bể cũng có một dải núi lớn bao bọc, ruộng nương tươi tốt và giồng dừa sầm uất, đẹp lắm, dân cư trù mật, ở rải rác cả hai bên đường, vui vẻ lắm. Nhà làm cũng chỉnh tề lắm, lợp bằng rơm rất dầy mà cắt sửa rất vuông vắn. Từ Hoành Sơn vào đến đấy về vùng nhà quê, không thấy cái nhà ngói nào cả. Trừ các tỉnh nghèo không kể, tỉnh Bình Định này chắc có nhiều người làm được nhà ngói, cứ người ta nói thì vẫn là cái tục cổ của nước nhà, vì làm nhà ngói thì sợ quân cướp và quấy nhiễu.
Hai bên vệ đường giồng toàn cây mù u mát mẻ lắm; thứ cây này bắt đầu trồng từ khỏi Huế; thứ nhất ở gần Quảng Ngãi, lá thì rợp, quả thì ép làm dầu thắp, có cây đã cổ thụ, thì biết rằng con đường quan lộ này làm đã lâu, chắc từ trước đời vua Gia Long.
Khi chửa đến tỉnh Bình Định, tôi nghĩ tỉnh này nghèo, cho nên Tây Sơn khởi sự dễ, thành ra không phải, tỉnh này lại là tỉnh trù phú hơn cả trong Trung Kỳ. Tỉnh này nghề võ và nghề hát tuồng có tiếng, chắc cũng là cái di phong thượng võ hào hiệp của nhà Tây Sơn còn lại chăng? Tôi tiếc không được đến thăm miếu Tây Sơn.
Đường thì đi qua ngoài thành phố Bình Định, không trông thấy nhà cửa, thành này tức là tích “Tượng kỳ khí xa”. Qua Bình Định một lát thì đến Quy Nhơn. Quy Nhơn là một cái thành phố ở bờ bể. Sau lưng và ở giữa bể đằng trước mặt đều có núi, phong cảnh cũng đẹp; phố xá buôn bán cũng vui, có nhiều hiệu khách to, họ thu yến sào và vây cá. Nhiều chú lấy vợ người Bình Định, cũng ngồi bán hàng. Ở Bình Định và Quy Nhơn đã bắt đầu có những tháp của người Hời còn di tích lại. Người Hời là dân cũ Chiêm Thành bị nước ta lấn dần, nay còn một số ít người, rút vào miền Phan Rang và Phan Rí (thuộc tỉnh Bình Thuận). Chúng tôi ngủ ở Quy Nhơn một tối”…
Trên đây chúng tôi mới chỉ sưu tập được mấy trang du ký hồi đầu thế kỷ viết về vùng quê Bình Định. Đặc biệt với những trang miêu tả về Bàn Thành có thể giúp các nhà quản lý hình dung đầy đủ hơn khu di tích mà thời chiến tranh đã bị tàn phá nặng nề, từ đó có thêm tài liệu để phục dựng, giúp du khách muôn phương hiểu rõ hơn một miền quê văn vật. Thêm nữa, với sự góp sức của nhiều người, hy vọng rồi đây chúng ta có thể xây dựng được bộ sách Du ký Bình Định nửa đầu thế kỷ XX phong phú và đầy đủ hơn.
(Viện Văn học) |