Khám phá sắc phong của các triều đại phong kiến VN
11:34', 28/3/ 2011 (GMT+7)

Cùng với các loại văn bản và thư tịch cổ, sắc phong được xem như một loại văn chính thống của nhà nước phong kiến. Trải qua thời gian và bom đạn chiến tranh, hàng ngàn sắc phong vẫn được các làng quê và dòng họ VN nâng niu gìn giữ như một báu vật. Lý do vì sao?

 

Sắc phong thành hoàng làng năm Minh Mạng 21.

 

Sắc phong (gọi đầy đủ là đạo sắc phong) xuất hiện từ khoảng thế kỷ 15, dưới triều nhà Lê, được xác nhận bằng ấn triện của nhà vua mang nội dung công nhận có tính nhà nước, đồng thời thể hiện quyền lực của triều đình đối với các làng xã. Cùng với các loại văn bản và thư tịch cổ như chiếu, chỉ, hịch, văn bia, gia phả,… sắc phong được xem như một loại văn bản pháp quy chính thống của nhà nước phong kiến.

Dấu ấn quyền uy

Theo các nhà nghiên cứu, về cơ bản, sắc phong gồm có hai loại. Loại thứ nhất dùng để phong cấp, tưởng thưởng chức tước cho các công thần. Đây được xem là vật gia bảo và thường được cất giữ cẩn thận tại các gia đình hoặc nhà thờ họ. Hiện, những sắc phong này còn khá nhiều ở các dòng họ ở Nghệ Tĩnh, Thừa Thiên Huế, Vĩnh Phúc, Thái Bình…

Loại thứ hai là sắc phong thần cho các thần linh hoặc những bậc hiển thánh (thành hoàng làng), là tài sản chung của cả cộng đồng làng xã cho nên thường được cất giữ tại các đình, đền, miếu mạo. Rất nhiều đình, đền trong cả nước còn giữ được các bản sắc phong loại này. 

Về hình thức, trên mỗi sắc phong đó, dấu ấn uy quyền của các vị vua cai trị được thể hiện khá rõ rệt. Chẳng hạn, giấy phong cho bách quan có 3 hạng thì hạng Nhất, xung quanh khung có vẽ 8 con rồng nhỏ, mặt trước vẽ một con rồng lớn, ẩn trong mây, gọi là Long ám, mặt sau vẽ hình Tứ linh (Long-Ly-Quy-Phượng); hạng Nhì, xung quanh khung vẽ mây hoặc họa tiết hồi văn, mặt trước vẽ một con rồng, mặt sau vẽ Nhị linh (hai con vật trong Tứ linh); hạng Ba, xung quanh in triện gấm, mặt trước vẽ một con rồng ở giữa và bốn góc in hình Ngũ tinh (Năm ngôi sao), mặt sau vẽ bầu rượu túi thơ.

Giấy phong cho bách thần cũng có 3 hạng, trong đó, Thượng đẳng thần xung quanh in triện hoa chanh, phía trước vẽ một con rồng, ở giữa in hình Ngũ tinh, bốn góc in hình Thất tinh, mặt sau vẽ hình Tứ linh; trung đẳng thần mặt trước giống như sắc Thượng đẳng thần, mặt sau vẽ Lá và Bầu rượu, giữa vẽ hai chữ Thọ liền nhau, gọi là song thọ; hạ đẳng thần mặt trước giống như hai hạng trên, mặt sau không vẽ. 

 

Sắc phong chức tước cho Trần Bá Hữu năm Cảnh Thịnh 9 (1801) ở Bình Định. Ảnh: thuhoavn.com.

 

Độc bản 

Dòng họ nào có người được ban sắc phong, làng xã nào có thành hoàng được ban sắc là một vinh dự vô cùng to lớn, nghi lễ rước sắc phong vì thế cũng được tổ chức đặc biệt trang trọng. Theo sách Đại Phùng tổng khoán ước: “Sắc đưa về đến đình, chép thêm ra một bản, giống như bản chính (đều dùng giấy vàng mực đen, lấy người có chữ đẹp trong thôn viết đằng tả), rồi lập một hương án, đặt lên, vái 5 vái (thay thần tạ ơn vua). Sau đó, hóa bản sao đi, còn bản chính thì rước vào trong đình”. Chính vì thế, sắc phong nào chỉ cũng có duy nhất một bản.

Trong mỗi bản sắc phong, niên đại tuyệt đối đến tận ngày, tháng, năm. Niên đại của sắc phong được ghi ở cuối văn bản gồm niên đại triều vua ban sắc, tháng ngày ban sắc, chẳng hạn: Sùng Khang cửu niên thập nhất nguyệt sơ lục nhật (Ngày 6 tháng 11 năm Sùng Khang thứ chín, tức là năm 1574, dưới triều Mạc Mậu Hợp), hay: Khải Định cửu niên thất nguyệt nhị thập ngũ nhật (Ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9  tức là năm 1924 dưới triều vua Khải Định nhà Nguyễn).

Niên đại tuyệt đối chính xác là căn cứ để có để người đời sau có thể hiểu về phong cách mỹ thuật, thư thể của từng thời kỳ lịch sử.

Hiện, còn 2 đạo sắc phong được cho cổ nhất. Một đặt tại đền Quang Lang, thôn Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, (Thái Bính) với niên hiệu Hồng Đức 23 (1492) và Hồng Đức 28 (1497) dưới triều vua Lê Thánh Tông; một đặt ở đính Tử Dương, làng Tử Dương, (tên Nôm là làng Tìa), xã Tô Hiệu, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc về Hà Nội) với niên hiệu Sùng Khang 9 (1574) dưới triều Mạc Mậu Hợp.

Được làm từ chất liệu quý

Theo nhận định của nhiều nhà nghiên cứu, sở dĩ các sắc phong tồn tại được đến ngày nay, dù trải qua nhiều thế kỷ, chịu nhiều tác động của thiên nhiên và con người, là do được viết trên chất liệu giấy sắc hay còn gọi là giấy Nghè (vì được làm tại làng Nghè  tên Nôm của làng Nghĩa Đô, Từ Liêm, Hà Nội). Đây là một loại giấy được sản xuất bằng kỹ thuật cổ truyền đặc biệt để chuyên cung cấp cho triều đình sử dụng.

Loại giấy này quý trước hết là ở nguyên liệu dùng để vẽ lên bề mặt giấy là vàng, bạc và kim nhũ. Nhờ nguyên liệu này mà giấy sắc có hình thức và màu sắc đã đẹp lại bền, có thể tồn tại hàng trăm năm mà không hề hư hỏng. Quý vì lẽ thứ hai: làm giấy sắc đòi hỏi rất nhiều công phu.

Theo bí quyết còn truyền lại ở làng Nghè, để xeo một tờ giấy sắc cho hàng Nhất phẩm thì phải có 5 người thợ cùng góp sức một lúc. Giấy để phong cho hàng phẩm cấp thấp hơn (tức là từ Nhị phẩm xuống tới Cửu phẩm), khổ giấy hẹp hơn, cũng phải cần tới 3 người. Đấy là công đoạn xeo giấy, phần vẽ giấy sắc mới là khâu tinh xảo nhất, công phu nhất, đòi hỏi tay nghề cao. Vẽ gồm hai công đoạn: Vẽ chạy và Vẽ đồ. Vẽ chạy là vẽ ra hình rồng mây, hình triện, hoa văn; việc này do những thợ giỏi thực hiện… Vẽ đồ là theo nét vẽ chạy mà tô kim nhũ, vàng bạc...

Trong khi tư liệu Hán Nôm ghi trên chất liệu giấy chỉ có niên đại từ thời Nguyễn trở về sau (từ 1802 đến nay), thì nhiều đạo sắc phong lại có niên đại thời Lê sơ, thời Mạc; vì thế, theo Giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Sử học Việt Nam, sắc phong là một di sản quý của dân tộc và là nguồn tư liệu quý hiếm cần được bảo vệ và nghiên cứu hơn nữa để phát huy tác dụng.

Mới đây, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch phối hợp với Thư viện Tổng hợp Thừa Thiên - Huế, Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh tổ chức triển lãm tài liệu Hán - Nôm tại thành phố Huế (Thừa Thiên - Huế).

Triển lãm đã giới thiệu trên 15 đầu tài liệu với 50 bản gốc gồm sắc phong, văn bản đất đai, quy chế của phủ các ông hoàng, bà chúa... Bản số hóa, phục chế gồm có 24 sắc phong, hàng trăm trang tài liệu phục chế số hóa đã được thực hiện ở các dòng họ tại thành phố Huế và một số địa phương như gia phả, giấy chứng nhận, bài thi hương, sách thuốc, bộ binh cấp, đề bạt chức vụ quan lại triều Nguyễn... Ngoài ra, còn có sách Kim Vân Kiều truyện, bản in năm 1866; Hoàng Triều Ngọc Điệp và 43 cuốn tài liệu nghiên cứu về gia phả được thực hiện bởi Trung tâm gia phả thành phố Hồ Chí Minh.

Đến nay, Thừa Thiên - Huế đã sưu tầm, số hóa được trên 49.500 trang tài liệu Hán - Nôm bảo đảm yêu cầu về nội dung. Phần lớn tài liệu quý hiếm có niên đại từ đời Cảnh Hưng, Cảnh Thịnh đời Lê; thời Tây Sơn và triều đại nhà Nguyễn.

. Theo BAODATVIET.VN

In trang Gửi phản hồi

CÁC TIN KHÁC >>
Người sẵn sàng mổ bụng cho địch xem gan  (25/03/2011)
“Thưởng thức” Việt Nam từ Bắc vào Nam   (24/03/2011)
Cắt đứt đường 19 trong chiến dịch Tây Nguyên - xuân 1975   (21/03/2011)
Cắt đứt đường 19 trong Chiến dịch Tây Nguyên-Xuân 1975  (18/03/2011)
Cắt đứt đường 19 trong chiến dịch Tây Nguyên-Xuân 1975  (16/03/2011)
Anh hùng hơn 40 năm sống lặng lẽ giữa đời thường  (14/03/2011)
Gặp lại những cựu tù cuối cùng rời "địa ngục trần gian"   (10/03/2011)
Đòn chí mạng giáng vào chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh"  (06/03/2011)
Có hay không nghĩa trang đầu tiên của Liên khu 5?   (01/03/2011)
Hành hương về nguồn cội…   (22/02/2011)
“Mà nay áo vải cờ đào...”  (17/02/2011)
DU KÝ BÌNH ĐỊNH NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX  (15/02/2011)
Đặng Thùy Trâm trong ký ức của những thủy thủ tàu không số  (14/02/2011)
Sáng mãi hào quang Tây Sơn   (12/02/2011)
Gò 13 hay là sự tích gò Đống Đa  (08/02/2011)