Tìm lại ký ức trong tên gọi B’lao
11:3', 21/6/ 2012 (GMT+7)

Vùng đất ấy vừa gần gũi, vừa xa xôi, vừa thần thoại, vừa thực hữu ngay từ tên gọi. “B’lao” có ý nghĩa gì không? Hay chỉ đơn thuần là một cái tên từ xa xưa để lại? Chắc hẳn rằng rất nhiều du khách, cũng như tôi đã thắc mắc về điều này khi lần đầu được nghe thấy địa danh B’lao, một vùng chè ngát hương thuộc tỉnh Lâm Đồng, cách thành phố Đà Lạt khoảng 100km.

 

Thực ra, B’lao là tên gọi cũ của Bảo Lộc, một đô thị cao nguyên gần với Sài Gòn nhất. Trong ký ức của nhiều người dân, thì B’Lao, cho đến nay vẫn hiện hữu trong tâm trí họ như một địa danh có nhiều huyền thoại, từ năm 1920 tên gọi này bao gồm từ Bảo Lâm, Bảo Lộc kéo dài đến tận một phần của huyện Định Quán, rộng đến 281.186 ha. Chuyện tách nhập B’Lao từ thời toàn quyền Paul Doumer năm 1899, đến thời Hoàng Triều Cương Thổ rồi chế độ trước và đến nay, B’Lao vẫn giữ được những nét trầm mặc lặng lẽ của cô gái Mạ dậy thì đầy sức sống. Nay, cái tên B’lao chỉ còn gắn với một phường trong thị xã, tuy nhiên, người ta vẫn quen gọi Bảo Lộc là B’lao với nhiều suy tư và nhung nhớ về những ngày tháng cũ đã gắn liền với xứ này từ những năm 1958 trở về trước. Bởi lẽ, hai chữ Bảo Lộc mới xuất hiện từ năm 1958, khi tỉnh Lâm Đồng thay tên Đồng Nai Thượng. Lúc đó tỉnh Lâm Đồng chỉ có hai huyện là Di Linh và Bảo Lộc. Trung tâm Bảo Lộc được chọn làm tỉnh lỵ. Địa giới của huyện kéo dài đến dưới chân đèo Chuối, bọc theo thượng nguồn sông Đồng Nai. Dẫu thế nào, thì tiếng B’lao vẫn luôn nằm trong tâm thức của rất nhiều người, thậm chí đã trở thành một thương hiệu, như thương hiệu trà B’lao chẳng hạn.

Có hướng dẫn viên du lịch kể lại rằng, nhiều du khách, cả Tây lẫn Ta luôn thắc mắc khi được giới thiệu về văn hóa trà ở vùng nam Tây Nguyên, B’lao thực ra có nghĩa là gì? Họ cho rằng, từ B’lao đâu có “giống tiếng Việt”. Bởi vì theo họ, hình như hầu hết các địa danh ở Việt Nam đều có phát âm cùng với nghĩa Hán Việt hoặc cho dù có nguồn gốc từ ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số thì tên gọi thường cũng bị Việt Ngữ hóa theo thời gian như Đắc Lắc, Gia Lai… Dù thế nào, thì B’lao vẫn luôn tồn tại với hình ảnh về một vùng cảnh vật thơ mộng, thời tiết dễ chịu, với  sương núi lãng đãng, với màu xanh của núi rừng, màu xanh của đồi trà chập chùng trải dài, làm con người thấy mình hòa lẫn vào thiên nhiên, thoảng đâu đây trong gió núi, mùi hương ngan ngát, nồng nồng của hoa trà bay về quanh quẩn trên những nhánh cây, bụi cỏ. Nhìn về phía dưới xa xa là thành phố Bảo Lộc với những mái ngói đỏ thấp thoáng trong màu xanh của cây rừng, đó đây là những đồi trà xanh ngắt, rồi cứ mỗi chiều về, những đám mây núi nhiều hình thù cứ lũ lượt tụ về quanh đỉnh Sapung. Và hơn thế, B’lao nay đã trở thành một thương hiệu trà được ưa chuộng trên khắp đất nước Việt Nam ta.

Sau này, khi dân cư kéo về nơi đây ngày càng đông, người ta thường lấy sông suối làm tên gọi của làng như: Đạ Lào, Đạ Nghịch, Đạ Tẻh, Đạ Tồn…(Đạ nghĩa là con suối). Sau năm 1954, cuộc di dân lớn trong lịch sử Nam Tiến, những cư dân mới này đã lấy tên cũ của quê mình ghép lại đặt tên nơi ở mới, như Tân Bùi (Bùi Chu mới), Tân Phát (Phát Diệm mới), Tân Thanh (Thanh Hóa mới)… Và, những năm mới giải phóng, Bảo Lộc tiếp nhận thêm số lượng di dân lớn thứ hai gọi là dân đi Kinh tế mới từ Bắc và Trung vào. Họ cũng đặt tên làng mới như làng Gia Viễn, làng Đức Phổ… Những làng, xã được đặt tên mới này không những mang theo hoài niệm quê hương còn mang theo phong tục tập quán vùng miền. Vì vậy âm sắc đặc trưng B’Lao là âm sắc pha trộn. Một ít người cho rằng âm sắc B’Lao được hình thành từ sự kết hợp giữa âm Huế và âm Phan Thiết. Tuy nhiên, theo anh Ninh Thế Hùng - người đã dành nhiều thời gian ghi chép B’Lao xưa, cho rằng âm sắc B’Lao là giọng Bắc. Vì từ sau 54, dân lập nghiệp từ đàng ngoài vào chiếm đa số…

Cũng như nhiều địa danh khác, cái tên B’lao từ khi xuất hiện đã mang nhiều ý nghĩa, nhiều khát vọng của dân làng, của con người về cuộc sống. Theo một số tài liệu, thì B’lao có 2 nghĩa khác nhau. Với già làng người Mạ, thì B’lao là đám mây bay thấp, còn với người Khor, thì B’lao mang ý nghĩa về sự tốt đẹp. Xung quanh nhiều hàm ý ấy, người dân xứ mù sương nghe lại, hoặc đã thêu dệt thêm nhiều câu chuyện ly kỳ, huyễn hoặc về mảnh đất nơi họ sinh ra và lớn lên. Người ta truyền tai nhau rằng: “Ngày xưa, đã lâu lắm rồi, khi đất trời còn hoang sơ, con người còn thuần phác, một đêm, thần linh bỗng hiện về báo mộng cho người Mạ, người nói rằng phải dẫn nhau đi qua ba núi ba sông mới đến được nơi có đám mây bay thấp. Nơi đó có ba con nước giao nhau, có con cọp trắng dưới chân núi Đại Bình để sau này cùng chung sống với hai người anh em khác là người K’Ho và người Kinh”. Để bây giờ, tại vùng bạt ngàn chè xanh ấy, có các dân tộc anh em sinh sống thuận hòa, cùng nhau làm nên thương hiệu trà và khung cảnh cùng đời sống hiền hòa, thơ mộng nơi đây.

 

Đến với xứ B’lao, đôi người tỏ vẻ ngạc nhiên vì khác với đa số người dân Tây Nguyên sống dựa vào cà phê, sau này là đến cao su, hồ tiêu, người dân B’lao lại bền bỉ với cây chè từ bao đời. Vì thế mà đôi người đã nhận xét, khí hậu và khung cảnh ở đây dường như chỉ hợp với người già và cây chè. Người B’lao chỉ dùng chè xanh, ít khi sử dụng các loại trà thương phẩm. Họ ít sử dụng quần áo se sua sặc sỡ như những vùng khác, ban đêm ít ra đường. Khoảng hơn 10 giờ tối, phố xá đã bắt đầu vắng, nhất là mùa đông. Thời tiết dường như mùa nào cũng có mưa. Chính người Pháp đã đưa cây chè đến với B’lao sau khi mất rất nhiều công sức khảo sát, gom nhặt cây con suốt đường quốc lộ từ Đồng Nai Thượng lên đến Lâm Đồng lúc bấy giờ. Do chứng tỏ được cây chè vẫn sống bền bỉ và phát triển tốt nhất ở độ cao trên 1200m, đến năm 1925, ở B’lao đã có tới 2170ha chè. Điều đó cho thấy, lịch sử cây chè ở B’lao khá lâu đời, cho đến nay đã 80 năm qua đi từ khi cây chè xuất hiện.

Từ thuở ấy đến nay, Blao đã qua nhiều thay đổi. Nều như ngày xưa từ ngọn núi Đại Bình với đỉnh S’Pung cao đến 1.100m. có thể nhìn thấy toàn cảnh B’Lao xưa; quan sát được màu xanh của rừng núi đại ngàn, những căn nhà dài của người Mạ và K’Ho thì bây giờ điều đó chỉ còn trong câu chuyện kể.  Phường B’Lao hiện nay đang tọa lạc giữa trung tâm thành phố trẻ. Những cư dân mới đến đôi khi ngỡ ngàng khi bất chợt ai đó nhắc đến cái tên B’lao xa xưa mà đầy kỳ tích. Thôi thì mừng cho những gì Bảo Lộc, Lâm Đồng đã đạt được, và cũng tự dặn lòng mình, đừng bao giờ quên những tháng ngày xưa cũ với tên gọi thân thương của xứ này: B’lao.

. Theo Văn hiến Việt Nam

In trang Gửi phản hồi

CÁC TIN KHÁC >>
Thành nhà Hồ: Hướng mở thổi hồn cho di sản   (16/06/2012)
Về Đề Gi, nếm gỏi cá mai…  (11/06/2012)
Kỷ niệm về nhà thơ Xuân Diệu   (05/06/2012)
“Phủ” đơn vị hành chính ở Bình Định ngày xưa  (28/05/2012)
Lặn nhum ở "thung lũng tình yêu"  (24/05/2012)
NSƯT Văn Bá Anh - Một nghệ sĩ, một người thầy  (21/05/2012)
Mực nháy Nhơn Châu  (19/05/2012)
Góp phần tìm hiểu quê hương danh tướng nhà Tây Sơn - Trần Quang Diệu  (17/05/2012)
Lung linh đêm Quy Nhơn  (16/05/2012)
Về An Lão leo đèo, ngắm thác  (14/05/2012)
Gỏi cá hố bóp chanh  (11/05/2012)
Chí sĩ Tăng Bạt Hổ - một người Việt yêu nước  (04/05/2012)
Người mẹ bên cầu Bàu  (29/04/2012)
Hội quán người Hoa ở Quy Nhơn  (29/04/2012)
Hành trình các đô thị cổ  (29/04/2012)