Dự án Cạnh tranh nông nghiệp (CTNN) do Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ, đang được triển khai tại nhiều địa phương ở tỉnh ta. Bằng nhiều hoạt động hỗ trợ cụ thể, Dự án đã từng bước đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của nông dân. PV Báo Bình Định đã phỏng vấn bà Trần Thị Kim Oanh, Phó Giám đốc Ban quản lý (BQL) Dự án CTNN tỉnh, quanh việc thực hiện Dự án này.
|
Dự án Cạnh tranh nông nghiệp hỗ trợ kinh phí cho xã viên HTXNN 2 Cát Hanh (Phù Cát) mua máy móc phục vụ sản xuất.
|
* Bà có thể cho biết tình hình thực hiện Dự án CTNN ở tỉnh ta đến hiện nay?
- Bình Định là 1 trong 8 tỉnh miền Trung-Tây Nguyên được Bộ NN-PTNT chọn thực hiện Dự án CTNN. Dự án gồm có 4 hợp phần: Hợp phần A - tăng cường công nghệ nông nghiệp, hợp phần B - hỗ trợ liên minh sản xuất (LMSX), hợp phần C - cung cấp cơ sở hạ tầng thiết yếu, hợp phần D - hỗ trợ quản lý dự án.
Với hợp phần A, BQL đã tổ chức nhiều đợt sàng lọc và được WB cho phép thực hiện 16 chủ đề về nghiên cứu và phát triển công nghệ nâng cao khả năng cạnh tranh; 6 chủ đề phát triển các phương thức canh tác bền vững. Đến nay, có 4 chủ đề đã hoàn thành xong, được chính quyền và nông dân tham gia dự án đánh giá cao. Trong khuôn khổ của hợp phần A, BQL Dự án cũng đã ký hợp đồng trách nhiệm với Chi cục Bảo vệ thực vật thực hiện giám sát và kiểm tra dư lượng hóa chất trên các loại rau xanh tại một số địa phương trong tỉnh, đồng thời hướng dẫn nông dân sản xuất rau an toàn.
Với hợp phần B, đến nay đã có 11 LMSX mới được thành lập với 9 doanh nghiệp (DN) và 1.185 nông hộ tham gia. Dự án đã hỗ trợ cho 11 liên minh 16,418 tỉ đồng để mua sắm trang thiết bị, máy móc, vật tư phân bón… phục vụ sản xuất, kinh doanh. Thực tế cho thấy, nhiều LMSX đã tổ chức tốt hoạt động sản xuất và thu mua nông sản, mang lại lợi ích cho cả DN và nông dân. Dự án đang tiếp tục hỗ trợ, thúc đẩy việc thực hiện hợp đồng giữa DN và nông dân; giám sát hoạt động của các LMSX, nhằm giúp các LMSX hoạt động hiệu quả hơn.
Với hợp phần C, WB đã cho phép tỉnh ta thực hiện 25 tiểu dự án nâng cấp, cải tạo kênh mương dẫn nước và đường giao thông tại các vùng thực hiện LMSX ở Phù Mỹ, An Nhơn, Tây Sơn, Tuy Phước, An Lão, Hoài Nhơn, Hoài Ân, Vĩnh Thạnh, Quy Nhơn… với tổng chiều dài kênh mương 19,248 km và 9,69 km đường giao thông. Trong đó, có 4 tiểu dự án, gồm: nâng cấp, cải tạo kênh tưới N1 hồ Hội Khánh, xã Mỹ Hòa - Phù Mỹ; nâng cấp đường giao thông liên thôn và cải tạo kênh tưới vùng sản xuất mía xã Nhơn Thọ - An Nhơn; nâng cấp, cải tạo kênh tưới N1 Trạm bơm Thuận Nghĩa, thị trấn Phú Phong - Tây Sơn; nâng cấp, cải tạo kênh tưới Bình Lâm, xã Phước Hòa - Tuy Phước, đã nghiệm thu đưa vào sử dụng, phục vụ tưới cho 1.155 ha cây trồng tại các địa phương. Hiện nay, chúng tôi đang đôn đốc các nhà thầu đẩy nhanh tiến độ các tiểu dự án còn lại.
Hợp phần D cũng đã thực hiện nhiều hoạt động, như mua sắm trang thiết bị văn phòng; cử cán bộ BQL tham dự các lớp đào tạo, tập huấn và tham quan, học hỏi kinh nghiệm do WB và Ban điều phối Trung ương tổ chức.
* Các hợp phần của Dự án đã thực hiện xong có đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của các đối tượng tham gia không, thưa bà?
- Tất cả các chủ đề, các hoạt động của Dự án đã và đang thực hiện đều là những vấn đề bức xúc, cấp thiết ở địa phương do ngành chức năng, chính quyền, tập thể nông dân và các DN đề xuất. Bởi vậy, các đối tượng tham gia đều rất hài lòng với các hoạt động của Dự án. Thực tế cho thấy, nhiều tiểu dự án hoàn thành đưa vào sử dụng, nhiều LMSX hoạt động hiệu quả và các hoạt động hỗ trợ của Dự án đã đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của nông dân.
* Được biết, quá trình thực hiện Dự án đã phát sinh nhiều khó khăn, vướng mắc. Bà có thể cho biết thêm về vấn đề này?
- Điều kiện tự nhiên ở tỉnh ta không thuận lợi cho việc thực hiện các hợp phần của dự án: Diện tích sản xuất của các nông hộ không lớn; trang trại sản xuất nông nghiệp và DN sản xuất nông nghiệp không nhiều, quy mô sản xuất nhỏ; các cơ sở nghiên cứu, chuyển giao kỹ thuật trên địa bàn tỉnh quá ít và quy mô nhỏ. Do đó việc triển khai thực hiện Dự án gặp khó khăn nhất định.
Cụ thể, với hợp phần A, chúng tôi gặp khó khăn trong việc tìm kiếm, lựa chọn các chủ đề và các công ty tư vấn tăng cường công nghệ nông nghiệp. Với hợp phần B, việc lựa chọn và thành lập các LMSX mới cũng gặp khó khăn vì số DN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, chế biến, nuôi trồng thủy sản không nhiều. Mặt khác, thủ tục giải ngân mua sắm thay đổi nhiều lần và phức tạp, trong khi đó trình độ của các tổ chức nông dân, các HTXNN không đồng đều, nên việc thực hiện các bước giải ngân theo các văn bản hướng dẫn của Bộ NN-PTNT còn lúng túng, ảnh hưởng tiến độ giải ngân của liên minh nói riêng và Dự án nói chung.
Đối với hợp phần C, sự phối hợp với các địa phương và các đơn vị liên quan trong tỉnh để triển khai các bước phê duyệt báo cáo đầu tư, thực hiện phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng cho các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu chưa chặt chẽ và chưa hiệu quả. Việc UBND tỉnh giao cho các địa phương bố trí vốn đối ứng cho các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu cũng ảnh hưởng nhất định đến tiến độ thực hiện Dự án.
* BQL Dự án đã có giải pháp nào nhằm đẩy nhanh tiến độ và thực hiện có hiệu quả Dự án này?
- Chúng tôi đã và đang triển khai nhiều biện pháp. Cụ thể, với hợp phần A, chúng tôi trình WB nhân rộng thêm 4 chủ đề nữa, đồng thời tiếp tục phối hợp với đơn vị tư vấn triển khai thực hiện các chủ đề đã trao hợp đồng. Với hợp phần B, sẽ tổ chức các cuộc họp rà soát lại kế hoạch kinh doanh của các LMSX; hướng dẫn các liên minh tổ chức thực hiện kế hoạch mua sắm nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân. Với hợp phần C, dự kiến trong quý 4 này sẽ hoàn thành kết quả đấu thầu xây lắp và trao hợp đồng, khởi công xây dựng 5 công trình hạ tầng thiết yếu đợt 4, và hoàn thành phê duyệt phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng, phê duyệt báo cáo kinh tế kỹ thuật và mời thầu các công trình đợt 5.
Bên cạnh đó, chúng tôi tiếp tục triển khai thực hiện kế hoạch về nâng cao năng lực quản lý và tăng cường thể chế của Dự án nhằm đảm bảo thực hiện hoàn thành kế hoạch năm 2012 của Dự án, đồng thời làm tiền đề để thực hiện hoàn thành Dự án vào những năm tiếp theo.
* Xin cảm ơn bà!
|