Dự án Nâng cao năng lực đánh giá và quản lý tài nguyên nước (Dự án CAPAS) tại Bình Định đã triển khai được 4 năm (2009-2012). PV Báo Bình Định đã phỏng vấn ông Đinh Văn Tiên, Phó Giám đốc Sở TN-MT, Trưởng Ban quản lý Dự án (BQLDA) CAPAS tỉnh, quanh vấn đề này.
|
Sông Hà Thanh là một trong những con sông có lượng nước khá lớn của Bình Định.
|
Theo các nhà nghiên cứu, Bình Định thuộc nhóm đối tượng khan hiếm nước không thường xuyên theo chỉ tiêu phân hạng về tài nguyên nước (TNN) của thế giới. Trung bình mỗi người dân trong tỉnh chỉ được khoảng 4.616m3 nước/năm; chỉ bằng 41,2-41,8% mức trung bình toàn quốc (9.856m3/người/năm) và mức trung bình của thế giới (12.900m3/người/năm). Đồng thời, chất lượng nước các sông trên địa bàn tỉnh ta cũng bị ô nhiễm vi sinh và hữu cơ. Vì vậy, việc Bình Định là một trong 7 tỉnh, thành được chọn tham gia Dự án CAPAS có ý nghĩa quan trọng.
* Qua 4 năm thực hiện DA CAPAS tại tỉnh ta đã đạt những kết quả gì?
- DA đã cơ bản đánh giá toàn diện về TNN dưới đất và nước mặt trên địa bàn tỉnh. Xác lập cơ sở dữ liệu liên kết được vận hành tại Bộ TN-MT và Sở TN-MT. Xây dựng thí điểm mô hình bảo vệ nước dưới đất trên địa bàn tỉnh. Bước đầu xây dựng hệ thống quan trắc TNN. Triển khai có hiệu quả các chiến dịch nâng cao nhận thức cộng đồng về TNN. Tổ chức có hiệu quả các khóa đào tạo về quản lý TNN…
Theo đó, vấn đề đầu tiên mà BQLDA CAPAS tỉnh quan tâm là làm thế nào để khảo sát, nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện về TNN dưới đất và nước mặt trên địa bàn tỉnh, tạo cơ sở cần thiết cho các hoạt động quy hoạch phát triển và quản lý TNN. Lâu nay, các dữ liệu cơ bản về hiện trạng TNN dưới đất và nước mặt còn rất hạn chế. Nhờ sự hỗ trợ, hướng dẫn của BQLDA CAPAS Trung ương, BQLDA tỉnh đã thực hiện đánh giá toàn diện hiện trạng về nước dưới đất và nước mặt; đánh giá tình hình, hiện trạng về khai thác, sử dụng và quản lý TNN qua các năm 2010, 2011, 2012; đánh giá các nguồn TNN; xác định các xu thế diễn biến về trữ lượng và chất lượng nước và đối chiếu với sự phát triển kinh tế - xã hội; đánh giá nhu cầu về nước cho các ngành công nghiệp, nông nghiệp; xác định mức cân bằng cần thiết giữa nhu cầu về nước và TNN cho giai đoạn 2010-2020; hoàn thành và nộp báo cáo hiện trạng nước dưới đất và nước mặt cho Bộ TN-MT và Sở TN-MT.
* Ông đánh giá như thế nào về việc xây dựng cơ sở dữ liệu TNN và hệ thống quan trắc TNN?
- Trước đây, lĩnh vực TNN do khá nhiều cơ quan, đơn vị quản lý, nhưng hầu hết các dữ liệu về TNN đều ở dạng bản in, bản viết tay, phân tán nhiều nơi. Vì vậy, BQLDA CAPAS tỉnh đặc biệt chú ý tới cơ sở thông tin và dữ liệu khổng lồ bằng bản in về quản lý TNN đã có từ lâu nay. Kết quả, BQLDA tỉnh đã hoàn thành việc thiết lập cơ sở dữ liệu TNN tại Bình Định; đào tạo nhân sự của Sở TN-MT về quản lý dữ liệu TNN; nhập các dữ liệu vào hệ thống cấp tỉnh; chuyển các dữ liệu đã được thống nhất ở dạng bản in sang số hóa; tiến hành phân tích dữ liệu và báo cáo về hiện trạng TNN.
Đồng thời, DA đã giúp cải thiện năng lực quan trắc môi trường và quan trắc TNN, giúp đào tạo nhân sự cho Sở TN-MT về việc sử dụng hệ thống quan trắc TNN; thiết lập thể chế quản lý TNN một cách hiệu quả trong việc chia sẻ dữ liệu và các hoạt động hợp tác khác; hỗ trợ việc lắp đặt các trang thiết bị quan trắc nước mặt và nước dưới đất; hỗ trợ việc phân tích và báo cáo các dữ liệu, quan trắc TNN.
* Còn những hạn chế, tồn tại trong quá trình thực hiện DA, thưa ông?
- Trong quá trình triển khai DA CAPAS, chúng tôi cũng gặp phải một số khó khăn. Việc phê duyệt kinh phí DA có sự chậm trễ từ phía BQLDA CAPAS Trung ương, gây trở ngại không nhỏ trong tiến độ triển khai các hoạt động của DA. Kế hoạch ngân sách được BQLDA Trung ương phê duyệt cũng chưa thực sự bám sát các đề xuất từ nhu cầu thực tế tại địa phương.
Đồng thời, các văn bản hướng dẫn thực hiện các hoạt động kỹ thuật của BQLDA Trung ương chậm được ban hành, cùng với việc thiếu các hướng dẫn thực hiện DA cũng làm cho BQLDA tỉnh khó chủ động trong công việc, thậm chí lúng túng. Chẳng hạn như việc chậm cung cấp thiết bị phục vụ công tác quan trắc TNN đã làm chậm trễ tiến độ vận hành hệ thống ghi nhận dữ liệu quan trắc TNN… Ngoài ra, nguồn lực của BQLDA CAPAS tỉnh chủ yếu là cán bộ kiêm nhiệm, nhưng lại phải đảm nhiệm khá nhiều công việc nên đôi lúc quá tải, ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện DA.
Điều đáng nói, kết quả mà DA CAPAS mang lại là rất đáng ghi nhận, song chưa có những cam kết cụ thể từ nhà tài trợ để duy trì kết quả sau khi dự án kết thúc, nhất là việc phân bổ kinh phí để duy trì hoạt động của các sản phẩm do dự án tạo ra.
* Xin cảm ơn ông!
Dự án CAPAS do Chính phủ Vương quốc Bỉ tài trợ. Cơ quan Hợp tác kỹ thuật Bỉ (BTC) và Cục quản lý TNN là 2 đơn vị chịu trách nhiệm triển khai. Dự án được triển khai ở 7 tỉnh và Bộ TN-MT, trong đó có Bình Định. Tổng nguồn vốn dành cho dự án là 4,4 triệu Euro, gồm vốn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Vương quốc Bỉ là 4 triệu Euro và vốn đối ứng trong nước 400 ngàn Euro. Riêng tỉnh Bình Định, dự án có tổng vốn trên 4,3 tỉ đồng; thời gian thực hiện 48 tháng (từ tháng 1.2009 và kết thúc vào tháng 11.2012).
Mục tiêu tổng thể của dự án gồm: Nâng cao năng lực và tổ chức thể chế cho Bộ TN-MT và các cơ quan quản lý nhà nước về TNN cấp tỉnh và cấp huyện, nhằm hỗ trợ công tác điều tra và quản lý chiến lược các nguồn TNN khu vực để phát triển hiệu quả, đạt được các mục tiêu phát triển của Việt Nam (VDGs). Mục tiêu cụ thể là: Cải thiện quy hoạch chiến lược về TNN; cải thiện công tác bảo vệ TNN; nâng cao năng lực nhân sự quản lý TNN của Bộ TN-MT và các Sở TN-MT. |
|