Chi cục Bảo vệ thực vật (BVTV) tỉnh vừa phối hợp với Ban quản lý Dự án cạnh tranh nông nghiệp tổng kết việc phân tích, kiểm soát, giám sát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) trên cây rau thu thập được tại các chợ và các làng rau trong tỉnh. Kết quả cho thấy nhiều mẫu rau có dư lượng thuốc BVTV vượt quá mức cho phép, ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng.
|
Nông dân tham quan mô hình sản xuất rau an toàn tại xã Phước Hiệp (huyện Tuy Phước).
|
Mối nguy hại từ dư lượng thuốc BVTV
Trong những năm qua, việc nông dân lạm dụng quá nhiều thuốc BVTV trong phòng trừ sâu bệnh cho cây rau đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và sức khỏe người tiêu dùng. Trước đây, thuốc BVTV chỉ dùng để phun cho lúa, nay hầu hết các loại cây trồng cạn như rau, quả, dưa, đậu… đều có dùng thuốc BVTV trong quá trình sản xuất để phòng trừ sâu bệnh. Việc sử dụng các loại thuốc BVTV không đúng chủng loại, liều lượng, thời gian, sử dụng các loại hóa chất cấm làm cho dư lượng hóa chất trong rau quả ở mức cao, đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe người tiêu dùng.
Theo thống kê của ngành chức năng, hàng năm, nông dân trên địa bàn tỉnh đã sử dụng hàng trăm tấn thuốc trừ sâu bệnh, trừ cỏ và hàng ngàn tấn phân bón hóa học các loại cho cây trồng. Ngoài những hóa chất ít độc hại, còn có loại lâu phân hủy, tồn đọng và lan tỏa trong môi trường (đất, nước và không khí) gây độc hại cho người và gia súc. Cụ thể, trong nguyên liệu sản xuất phân lân có chứa 3% Flo. Khoảng 50-60% lượng Flo này nằm lại trong đất và sẽ làm ô nhiễm đất khi hàm lượng của nó đạt tới 10mg/kg đất. Flo gây độc hại cho người và gia súc, kìm hãm hoạt động của một số enzim, ngăn cản quá trình quang hợp và tổng hợp protein ở thực vật.
Khi bón phân đạm cho cây trồng, cây chỉ sử dụng khoảng 40-60%, số còn lại đã bốc hơi hoặc lưu giữ trong đất. Sự biến đổi đạm thành Nitrat nếu tồn dư trong nông sản ở mức độ cao có thể gây ung thư. Mặt khác, Nitrat lưu lại trong đất làm chất lượng nước giảm. Urê bốc hơi trong không khí, trước hết khí NH3 làm ô nhiễm môi trường không khí, khí NO2 làm phá vỡ tầng ôzôn (NO2 sản sinh ra từ phân bón đến 15%), NH4 sẽ chuyển sang NO3 (tồn dư trong rau rất cao) do sử dụng liều lượng và tỉ lệ phân đạm không đúng quy định. Có vùng trồng rau xanh còn sử dụng nguồn nước tưới có hàm lượng NO3 hòa tan cao (nước thải công nghiệp) để tưới cho cây trồng, gây nguy hiểm cho sức khỏe người tiêu dùng.
|
Sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGap là mục tiêu ngành Nông nghiệp tỉnh đang hướng đến, nhằm đảm bảo sức khỏe cho người sản xuất và người tiêu dùng.
- Trong ảnh: Sơ chế rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGap tại HTXNN Thuận Nghĩa, thị trấn Phú Phong (huyện Tây Sơn) trước khi đưa đi tiêu thụ.
|
Tăng cường kiểm soát
Việc tăng cường giám sát và kiểm soát dư lượng hóa chất, thuốc BVTV trong nông sản là rất cấp thiết, nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, tăng khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản, rau xanh trên thị trường. Hiện nay, tỉnh ta đang triển khai thực hiện Tiểu hợp phần giám sát và kiểm soát dư lượng hóa chất trên rau xanh thuộc Hợp phần tăng cường công nghệ nông nghiệp thuộc Dự án cạnh tranh nông nghiệp, do Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA) và Chính phủ Việt Nam đồng tài trợ. Đây là điều kiện thuận lợi để các ngành chức năng, doanh nghiệp và nông dân cùng nâng cao nhận thức, tiến hành các hoạt động giám sát, kiểm soát dư lượng hóa chất trong nông sản có hiệu quả.
Ông Nguyễn Tấn Phát, Chi cục trưởng Chi cục BVTV (thuộc Sở NN-PTNT), cho biết: Trong năm 2012, dự án đã hỗ trợ kinh phí gần 1 tỉ đồng để lấy mẫu các loại rau, củ, quả tại các chợ đầu mối, các làng rau tập trung trong tỉnh nhằm phân tích dư lượng thuốc BVTV. Bên cạnh đó, dự án cũng đã hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp kiểm tra dư lượng hóa chất trên rau xanh: Chọn hộ sản xuất, cơ sở, doanh nghiệp mua sản phẩm và tổ chức thành nhóm hộ, khoảng 5 hộ/nhóm. Hỗ trợ mỗi nhóm 1 bộ dụng cụ GT-Testkit và thuốc thử để phân tích hóa chất BVTV. Tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật phân tích và tập hợp kết quả phân tích của các nhóm, báo cáo tài liệu định kỳ về Chi cục BVTV sau từng đợt phân tích để kiểm tra và có biện pháp khuyến cáo đối với người sản xuất, tiêu dùng.
Ngoài ra, Ban quản lý dự án còn hỗ trợ giám sát việc sản xuất tại các trang trại và chợ buôn bán nông sản ở các huyện Hoài Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ, thị xã An Nhơn, TP Quy Nhơn. Chọn một số loại rau, củ, quả phù hợp, khả năng tồn dư thuốc BVTV, lượng tiêu thụ trên thị trường lớn như: cải xanh, rau má, rau muống, rau mồng tơi, dưa leo, khổ qua, ớt, rau ngót… để thử mẫu, phân tích hàm lượng hóa chất độc hại. Tiến hành in ấn tài liệu giới thiệu danh mục hóa chất không được phép sử dụng hoặc đặc biệt nguy hại để người sản xuất và người tiêu dùng biết. Nhờ vậy, đã kịp thời phát hiện nhiều mẫu rau xanh có hàm lượng thuốc BVTV vượt mức cho phép, khuyến cáo người sản xuất, người tiêu dùng nâng cao nhận thức trong sản xuất, tiêu thụ rau an toàn, góp phần bảo vệ sức khỏe con người và môi trường sinh thái.
|