|
Để KTTT phát triển, các chủ trang trại cần sự hỗ trợ nhiều mặt của các cấp, các ngành trong tỉnh.
- Trong ảnh: Trang trại trồng cây ăn quả của hộ ông Phan Tốt, ở phường Bùi Thị Xuân (TP Quy Nhơn). |
Kinh tế trang trại (KTTT) là một trong những hướng phát triển kinh tế hữu hiệu, giải quyết được nhiều việc làm cho lao động ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên, mô hình KTTT ở tỉnh ta vẫn còn nhiều bất cập, cần nhận được sự quan tâm hơn nữa của Nhà nước để phát triển mạnh mẽ.
Điều kiện tốt nhưng đầu tư nhỏ lẻ
Tỉnh ta có nhiều ưu thế về đất đai, mặt nước, lao động... để phát triển KTTT. Thực tế cho thấy, nhiều địa phương đã khuyến khích nông dân phát huy những lợi thế này để đầu tư phát triển kinh tế theo mô hình trang trại, bước đầu mang lại hiệu quả tích cực. Điều dễ nhận thấy là các trang trại nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh ở những vùng ven biển, như: TP Quy Nhơn, Tuy Phước, Phù Mỹ, Phù Cát, Hoài Nhơn. Trang trại trồng cây lâu năm kết hợp chăn nuôi tập trung ở vùng khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp cây ăn trái, cây công nghiệp dài ngày, như: Hoài Ân, An Lão, Vĩnh Thạnh, Phù Cát, Phù Mỹ. Các trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển mạnh ở Hoài Ân, thị xã An Nhơn, Tuy Phước, Phù Cát... Theo thống kê của tỉnh, đến nay, toàn địa bàn hiện có trên 1.039 trang trại.
“Lấy ngắn nuôi dài”, đầu tư phát triển dần dần là cách thích hợp với đại đa số các chủ trang trại ở tỉnh ta, vì có thể giải quyết khó khăn về vốn, hạn chế khủng hoảng thừa sản phẩm, đảm bảo được thu nhập. Nhiều trang trại đã phát triển tốt, lãi cao nhờ nắm bắt được nhu cầu thị trường, đón đầu sản xuất và tạo thế cạnh tranh, mang lại hiệu quả.
Tuy nhiên, so với nhiều địa phương khác trong nước, phong trào KTTT ở tỉnh ta còn khiêm tốn cả về số lượng và quy mô, trong khi diện tích hoang hóa, mặt nước chưa sử dụng vẫn còn rất lớn.
Phần lớn, quy mô KTTT trong tỉnh hiện nay còn nhỏ lẻ và chưa đồng đều ở các vùng, các địa phương. Việc tổ chức sản xuất ở các trang trại còn mang tính tự phát, manh mún, chưa theo định hướng chung của tỉnh. Nhiều trang trại do hình thành tự phát nên tùy tiện trong bố trí sản xuất, đầu tư dàn trải, mạnh ai nấy làm, thiếu sự liên doanh, liên kết, tương trợ với nhau. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của nhiều chủ trang trại còn hạn chế, chưa đủ để tiếp nhận, quản lý sử dụng những nguồn vốn lớn để tổ chức sản xuất với quy mô lớn. Việc chuyển giao tiến bộ KHKT, cung cấp giống tốt cho các chủ trang trại tuy có được quan tâm nhưng vẫn còn nhiều hạn chế.
Ngại vay vốn, khó tiêu thụ sản phẩm
Phần lớn các chủ trang trại đều ngại vay tiền ngân hàng để đầu tư phát triển KTTT, vì lãi suất cao, thời gian trả vốn quá ngắn. Hơn nữa, do giá nông sản và sản phẩm chăn nuôi luôn bấp bênh, đầu ra thường không ổn định, nên họ sợ thua lỗ, không có tiền hoàn trả ngân hàng. Vì vậy, gần như toàn bộ các trang trại đều tự bỏ vốn để xây dựng và tổ chức sản xuất; hoặc tự bỏ công lao động xây dựng trong nhiều năm, như khu chăn nuôi bò sữa Nhơn Tân (An Nhơn).
Theo các chuyên gia kinh tế, để KTTT phát triển theo hướng bền vững, trước hết các chủ trang trại cần phải định hướng sản xuất, nâng cao năng lực quản lý của mình. Họ phải là những người đi đầu trong việc tiếp cận tiến bộ kỹ thuật, áp dụng vào thực tiễn và không ngừng học hỏi kinh nghiệm sản xuất, nắm bắt nhanh thông tin thị trường để lựa chọn sản xuất cây gì, con gì cho phù hợp.
Bên cạnh sự nỗ lực của các chủ trang trại, các cấp các ngành có liên quan trong tỉnh cũng cần hỗ trợ và tạo điều kiện cho họ về nhiều mặt. Có nhiều vấn đề tự thân các chủ trang trại không thể giải quyết được mà phải nhờ vào sự can thiệp của chính quyền và các ngành chức năng. Chẳng hạn như vấn đề cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài, vốn đầu tư... Để giải quyết được những vấn đề trên, các cơ quan chức năng cần tiến hành kiểm tra, xác minh, lập địa bạ, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài cho các chủ trang trại, tạo điều kiện cho họ được vay vốn, yên tâm hơn trong đầu tư sản xuất. Đồng thời, cần có quy hoạch tổng thể xác định rõ vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi gắn với công nghiệp chế biến; xác định rõ từng loại cây trồng trên từng loại diện tích đất.
|