Tây Nguyên được biết đến là vùng đất huyền thoại, là nơi cư trú của các dân tộc thiểu số như Êđê, M'nông, Gia Rai, Ba Na… Ngoài ra, Tây Nguyên còn được biết đến là vùng đất giàu truyền thống cách mạng và những giá trị lịch sử, văn hóa tinh thần vô giá; trong đó đặc biệt là sử thi.
Sử thi Tây Nguyên gắn liền với tên tuổi những anh hùng huyền thoại, những anh hùng của buôn làng Tây Nguyên từng được bao thế hệ ngưỡng mộ như Đam San, Đăm Di, Dyông Dư… mà đồng bào gọi là các M'tao…
Điều thú vị và hấp dẫn ở sử thi Tây Nguyên là những giá trị lịch sử, giá trị văn hóa của nó với những cứ liệu lịch sử đầy thuyết phục về một giai đoạn lịch sử của dân tộc mà theo một số nhà nghiên cứu, sử thi Tây Nguyên có thể ra đời khoảng thế kỷ XVI khi xã hội Tây Nguyên có những thay đổi to lớn do các cuộc chiến tranh giữa các buôn làng…
Cũng theo các tài liệu lịch sử, sử thi Tây Nguyên đã được biết đến từ thời Pháp thuộc, đầu những năm hai mươi của thế kỷ trước. Nhưng phải đến gần đây mới được nghiên cứu, khai thác một cách quy mô, sâu rộng hơn.
Cho đến nay sử thi Tây Nguyên được biết đến có hơn hai trăm bộ, đang được sưu tầm, ghi chép, tổ chức biên soạn. Và số đã được biết đến nhưng chưa kịp ghi chép cũng có hàng trăm bộ nữa. Đây chính là một kho tàng văn học dân gian khổng lồ, một kho lịch sử - văn hóa vô giá có thể so sánh với kho thần thoại Hy Lạp nổi tiếng.
Nhưng điều hơn hẳn (so với thần thoại Hy Lạp) là ở dung lượng của nó. Có những sử thi ngắn mà cũng có tới mấy trăm câu (sử thi H'Điêu có 570 câu); có những sử thi khá dài như Đam San (2.077 câu), Khinh Dú (5.880 câu) và có những sử thi rất dài. Có lẽ dài nhất trong số những sử thi đã được biết cho đến nay là Ót N'rông của người M'nông, khoảng 30 ngàn câu.
Dù ngắn, dài khác nhau nhưng sử thi Tây Nguyên vẫn phản ánh một cách trung thực, sinh động đời sống sinh hoạt cộng đồng, cuộc đấu tranh vì những ý tưởng nhân văn cao cả mà sự kiện trung tâm là hình ảnh những người anh hùng (các M'tao) qua các cuộc chiến đấu dũng cảm, với tài năng phi thường của mình, lãnh đạo nhân dân hình thành những cộng đồng mới, đông đúc, giàu mạnh hơn. Một trong những hình ảnh tiêu biểu ấy là Đăm San, người anh hùng của các buôn làng Tây Nguyên mà mối tình của họ (Đăm San và H'Nhi) đã có một câu chuyện dài.
Có thể nói, sử thi Tây nguyên là một bản anh hùng ca hùng tráng nhất trong giàn hợp xướng của một dân tộc có 4.000 năm lịch sử đấu tranh kiên cường, bất khuất để sinh tồn và phát triển…
Điều độc đáo của sử thi Tây Nguyên là cách kể. Dù văn bản có độ dài hàng trăm, hàng ngàn câu, nhưng vẫn có các cụ già thuộc lòng. Họ là những nghệ nhân, là những "kho tàng sống", góp phần lưu giữ những giá trị tinh thần vô giá của người Tây Nguyên. Có lẽ vì được sáng tác theo một loại văn vần đặc biệt của người Tây Nguyên nên người ta dễ thuộc, dễ nhớ đến như vậy. Với các già làng, mỗi lần kể Sử thi (còn gọi là kể khan) là được sống lại cái không khí cuộc sống cộng đồng. Mặt khác, cái khung ảnh huyền ảo của màn đêm, của không gian núi rừng như tạo nên một không gian huyền thoại mà cũng rất thực và sống động lạ thường.
Nếu ai đã nghe kể khan thì hẳn không quên được cái ấn tượng của những đêm Tây Nguyên khi bếp lửa bập bùng và bên ché rượu cần giữa nhà rông hay nhà dài, nghệ nhân ngồi giữa kể sử thi và xung quanh là con cháu, buôn làng ngôi nghe như nuốt từng lời, như hòa vào cái không gian huyền ảo, lung linh, lặng thầm của cuộc sống.
Ngoài cách kể trên, còn một cách kể độc đáo hơn. Đó là người ta nằm kể. Mỗi lần như thế, nghệ nhân nằm trên một chiếc ghế chỉ dành cho khách quý và là chỗ ngồi của giàn cồng chiêng trong các ngày lễ hội lớn. Họ nằm đấy "đầu gối lên một chiếc gối cao, tay gác lên trán, trang nhã và đẹp như một vị tiên". Điều đặc biệt là ông cụ nhắm mắt lại mà kể. Đây chính là một trong những điều bí ẩn của sử thi Tây Nguyên, qua đó đã góp phần làm nên diện mạo của các dân tộc giàu bản sắc văn hóa ở một vùng đất huyền thoại và nhiều tiềm năng này.
. Theo báo Đắk Nông |