Thợ kim hoàn trên núi cao
17:10', 27/3/ 2006 (GMT+7)

Sự kiện hàng trăm cặp uyên ương trao nhau những chiếc vòng bạc cầu hôn trong dịp Festival hoa Đà Lạt vừa qua lập tức đã thu hút được sự chú ý không chỉ của du khách mà chính nhiều bạn trẻ ở Lâm Đồng cũng bất ngờ trước phong tục đẹp và những chiếc nhẫn chế tác thủ công của các thợ kim hoàn trên núi cao...

 

      Những chiếc vòng cầu hôn và những dụng cụ chế tác.

 

Những chiếc nhẫn thiêng

Ma Quin, một phụ nữ người dân tộc thiểu số Chu Ru ở Ma Đanh (huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng) là một trong bốn chị em gái trong một gia đình đi cưới chồng có lễ vật cầu hôn là 17 chiếc nhẫn bạc xinh xinh. Dưới sự chứng kiến của hai họ, Ma Quin nhận người thanh niên ấy làm chồng, tuyên bố này thể hiện bằng nghi thức trao nhẫn cho nhau. Bên đàng trai nhận các lễ vật, ngoài đôi nhẫn của hai vợ chồng 15 chiếc nhẫn bạc còn lại được dâng lên cha mẹ, người thân thích họ hàng… - Ma Quin nhớ lại: “Nhưng số nhẫn bạc mà tôi đi cưới chồng còn ít hơn 3 người chị gái của tôi trước đó nhiều. Các chị tôi mỗi người đều có từ 20 chiếc trở lên!”. Nếu con trai về nhà vợ thì có cần mang theo nhẫn bạc không? Ma Quin nói luôn: “Bắt buộc cũng phải có chứ. Ít nhất là một chiếc để tặng cho vợ để làm chứng cho lời thề sống bên nhau trọn đời!”.

Theo lời giảng của những già làng người Chu Ru - khi đã xuất hiện trong lễ trao nhẫn những chiếc nhẫn bạc đơn sơ ấy không còn là chiếc nhẫn bình thường nữa nó  mang yếu tố tinh thần đặc trưng trong tình yêu đôi lứa người Churu. Nó là chiếc nhẫn thiêng. Bất kỳ lý do gì mà bên này trả lại chiếc nhẫn cưới cho bên kia thì phải chấp nhận lệ làng…phạt một trâu! Chưa hết còn phải gánh chịu năm này qua tháng khác tai tiếng là kẻ bội nghĩa, vong tình; ảnh hưởng đến thanh danh cả họ tộc nữa…

Mong muốn được nghe lời của “một nửa bên kia”, tôi dẫn lại câu chuyện của Ma Quin với Ja Toa, một trung niên tuổi bốn mươi ở cùng làng buôn Ma Đanh. Nhớ lại lễ trao nhẫn của mình cách đây 20 năm trước, Ja Toa như đang còn rạo rực khi đón nhận những… 30 chiếc vòng cầu hôn từ người vợ yêu trao gửi (trung bình mỗi chiếc nhẫn cầu hôn loại thông dụng mua chỉ trên dưới 20 kg lúa rẫy). Nay dù con cái Ja Toa đủ bề lớn khôn, nhưng trên ngón tay áp út vẫn còn nguyên chiếc nhẫn cưới năm xưa. “Nó là một vật chứng nhắc nhở tôi phải làm tròn hơn bổn phận của một người chồng, người cha trong nhà !” - Ja Toa nói như khoe.

Nghề thủ công độc đáo

Buôn Ma Đanh là nơi duy nhất có nghề truyền thống chế tác nhẫn bạc ở Lâm Đồng. Những người tìm được bạn đời tâm đầu ý hợp như Ja Toa, Ma Quin… luôn trân trọng những kỷ vật thiêng liêng ấy. Ngày xưa, không chỉ người ở buôn Ma Đanh mua nhẫn bạc của Ma Đanh mà nhiều người ở các buôn xa cũng tìm đến để mua. Từ làng nghề “kim hoàn” đến nay chỉ còn sót lại hai người thợ: một già một trẻ. Ông già tên Ja Quân, một người churu không còn nhớ đủ những mùa rẫy của mình nữa nhưng vẫn gắng sức truyền nghề cho người con rể. Hôm gặp tôi, ông bồi hồi: “Chỉ còn đúc mỗi ngày năm, ba chiếc thôi. Đúc cho con cháu trong dòng tộc là chính. Người làng mua nhẫn cứ vắng dần đi !”.

Người thợ già Ja Quân trong “lò đúc” nhẫn bạc.

Mới năm lên mười, ông Ja Quân đã được thân phụ dạy nghề cho. Năm lên mười ba tuổi tay nghề đã thành thạo; tự chế ra các loại nhẫn bán để có thể đem đổi gạo, bắp nhiều nơi trong huyện Đơn Dương, Đức Trọng.

Đi vào phía buồng trong, già Ja Quân đem ra những dụng cụ đúc bạc tự chế trông là lạ làm sao. Chiếc nồi nấu chảy bạc vừa bằng ngón chân cái, làm bởi đất sét và…phân trâu. Khuôn đúc bạc nặn ra từ nguyên liệu sáp ong, chỉ dài hơn mười phân, hình ống tròn to hơn ngón tay cái một chút. Trên miệng phễu đính chặt một mảnh nan tre làm nền cho dòng bạc nóng chảy đổ xuống. Dưới cùng đường ống là 3 ô tròn đều theo kích cỡ đường kính trung bình của vòng ngón tay người bình thường. Già Quân đưa tôi ra “lò đúc” bên góc sân nhà. Đó là một căn chòi hình vuông chừng bốn mét vuông, che chắn cũ kỹ những tấm bao tời. Lắp đặt chiếc bếp “mô phỏng” theo “thiết kế” của các “lò rèn”. Hai ống nhôm to như hai bắp chân dựng cao hơn nửa thước. Hai thanh gỗ quấn chặt lớp vải hai đầu thành “bít tông ” vận hành lên xuống bằng tay, tạo ra không khí dẫn vào bếp lửa. Già thao tác thuần thục, chuẩn xác từng công đoạn nhỏ, từ nấu chảy bạc đến đổ bạc vào khuôn đúc. Già giải thích: Củi đun phải chọn đúng củi siêu  (lọai cây tạp, bụi rậm nhưng rất khó tìm). Phải lấy đất lở trong mùa mưa để nung, trộn với phân con trâu đực trên dưới hai tuổi, chế thành những chiếc nồi chịu những độ nóng thay đổi của lửa. “Nhớ quạt lửa tăng giảm vừa phải; chọn đúng lúc độ nóng chảy của bạc là đổ vào đúc ngay. Làm chậm một chút, bạc sẽ cháy, coi như bỏ đi !” - Già Quân tiết lộ. Chòi đúc bạc phải nằm cách biệt với sinh hoạt gia đình, giúp người thợ đúc tập trung tâm trí hơn khi vào việc. Trước tết, già Ja Quân cho “ra lò” 10 chiếc nhẫn đủ kiểu hoa văn theo đặt hàng của một vị khách từ Sài Gòn. “Tôi phải làm vì con rể tôi cứ chê ít, bỏ đi làm vườn. Không biết mai sau, chúng nó có  giữ được nghề này…”

Hy vọng một làng nghề ?

Nhưng dẫu sao thì đã có những tín hiệu khả quan phát đi từ người thợ bạc trẻ nơi Ma Đanh tên là Ja Tuất. Năm nay 26 tuổi, Ja Tuất học nghề từ người cậu họ của già làng Ja Quân từ 6 năm về trước. Học say sưa, bền chí. Người thầy trước khi qua đời đã kịp truyền lại tất cả những bí quyết nghề cho Ja Tuất. Song ban đầu cũng không thóat khỏi cảnh “chợ chiều” như vòng nhẫn của già làng Ja Quân, mỗi tháng Ja Tuất “tự sản, tự tiêu” chỉ quá hơn trăm chiếc. Đến khi tỉnh và huyện xuống đặt hàng 500 chiếc nhẫn chế tác mới, Ja Tuất mới thực sự mừng lắm, hứa theo đuổi nghề này đến trọn đường.

Trở lại gặp lãnh đạo xã Tu Tra đều nhận được sự “đồng điệu” rằng phải giữ; phải khôi phục; phải phát triển làng nghề đúc những chiếc vòng nhẫn bạc dùng khi cầu hôn-trước hết là ở thôn Ma Đanh; sau đó tìm cách thu hút nhanh hơn “khách hàng truyền thống” ở những buôn làng lân cận. Vậy bao giờ sẽ…? Một lãnh đạo xã  nói:  “Rất nhiều nhã ý từ huyện lên tỉnh đến các địa phương bạn về trưng bày, quảng bá, tìm thị trường tiêu thụ..cho sản phẩm nhẫn bạc của Tu Tra. Chúng tôi đang tích cực xác lập mối quan hệ những nơi này, khi có kết quả sẽ chính thức động viên bà con phát triển lại nghề, nhưng cũng đồng thời khuyên họ hãy sử dụng nhiều hơn những sản phẩm của nghề mình …”

Những chiếc vong cầu hôn đã “ra mắt” là một sản phẩm du lịch hết sức độc đáo của Đà Lạt-Lâm Đồng. Đây là niềm hy vọng mới về một làng nghề “kim hoàn” phát triển không riêng với đồng bào thiểu số ở Đơn Dương…

  • Văn Việt
In trang Gửi phản hồi

CÁC TIN KHÁC >>
Chùa Ve chai (Linh Phước) thể hiện lối kiến trúc đồ sộ và độc đáo của Đà Lạt  (27/03/2006)
Di sản văn hóa Sa Huỳnh  (26/03/2006)
Từ thành công của đường bay Đà Lạt - Hà Nội  (23/03/2006)
Thầy dạy hai Tổng bí thư  (23/03/2006)
Thanh Hóa - địa chỉ bảo tàng văn hóa đá  (22/03/2006)
Nguyễn Khoa Ðăng - Bao Công Việt Nam  (22/03/2006)
Hướng tới mục tiêu đô thị có thương hiệu  (21/03/2006)
Trẩy hội Thu Bồn  (21/03/2006)
Gong Lu - Cồng đá Tây Nguyên  (20/03/2006)
“Khu du lịch làng quê Việt Nam” ở Hội An  (16/03/2006)
Những người nuôi bướm làm tranh  (15/03/2006)
Một nhà ba Trạng Nguyên  (15/03/2006)
Trường Lưu bát cảnh  (14/03/2006)
Để Sầm Sơn đẹp hơn trong lòng du khách  (13/03/2006)
“Tổng công trình sư trên vùng đất thép năm xưa”   (10/03/2006)