Bí mật về ngàn ngôi mộ không xác trên đảo Lý Sơn
16:8', 17/3/ 2009 (GMT+7)

Trong ráng chiều vàng vọt, khi tán dừa đổ dài nối nhau vắt qua hòn đảo, người đàn bà trẻ vẫn quỳ lạy bên nấm mồ trông như đụn cát với khói hương nghi ngút.

 

Những ngôi mộ gió trên đảo Lý Sơn.

 

Nấm mồ chị đang vái lạy là mộ chôn xác được nặn bằng đất thay cho hài cốt của chồng chị không biết ở phương nào ngoài biển khơi mịt mùng...

Thi thoảng chị lại nhìn ra phía biển. Những ngọn sóng bạc đầu vẫn đuổi nhau bất tận. Trên đầu sóng ngọn gió không có tuổi ấy, chồng chị cùng với không ít người  dân trên hòn đảo này đã ra đi mà không trở về.

Ngôi mộ lớn nhất đảo và…

Biển Đông có rất nhiều đảo, nhưng không đâu như đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), có ước chừng tới cả ngàn ngôi mộ chôn những pho tượng đất thay cho người chết  như thế.

Lẫn trong những luống tỏi, trên những bãi cát trắng hoang hoải, là những nấm mộ gió. Gió biển quanh năm vô tình gặm mòn những nấm mộ đắp bằng cát trắng.

Người hiện nay vẫn âm thầm làm cái công việc làm phúc là nặn những cái xác bằng đất sét đó là một ông thầy cúng kỳ lạ. Mấy chục năm nay, ông lặng lẽ lên núi Giếng Tiền đào đất về nặn xác, gọi hồn người chết trở về để phần nào làm vơi đi nỗi đau mất người thân của không ít người dân trên đảo.

Ông là  Võ Văn Toại năm nay 70 tuổi. Tướng mạo không có gì đặc biệt, ngoài mái tóc bạc trắng như cước.

Gặp ông sau một đám tang, nhắc đến những ngôi mộ gió trên đảo, ông Toại liền dẫn tôi ra ngôi miếu thiêng thờ hải đội Hoàng Sa nằm giữa đảo. Sau ngôi miếu thờ loang lổ vết thời gian ấy là nấm mộ gió dài của cai đội Phạm Quang Ảnh. 

Theo ông Toại, tục đắp mộ gió của người dân trên đảo có cách đây hơn 200 năm. Những ngôi mộ gió có thể nói là đầu tiên trên đảo là mộ của Phạm Quang Ảnh cùng với 24 lính của hải đội Hoàng Sa.

Ngày ấy Phạm Quang Ảnh cùng với 70 suất lính với 5 chiến thuyền làm nhiệm vụ canh giữ vùng biển và đo đạc thuỷ trình, tìm kiếm, khai thác những sản vật quý cung tiến triều đình. Mỗi chuyến ra khơi có khi kéo dài tới 6 tháng.

 

Ông Toại cùng tác giả bên ngôi mộ gió lớn nhất trên đảo.

 

Phương tiện ra khơi ngày ấy khi đó chỉ là những chiến thuyền nhỏ. Chuyến đi dài ngày, sóng to gió lớn, bão gió thường xuyên, lại không ít lần gặp cướp biển, nên nhiều chiến thuyền đã ra đi mãi mãi, không một người trở về. Rồi một lần Phạm Quang Ảnh cùng hải đội của mình đã gặp bão, mất tích giữa biển khơi...  

Vua Gia Long đau lòng, ra tận đảo làm lễ chiêu hồn cho các tử sĩ. Trong đoàn tuỳ tùng phục vụ lễ chiêu hồn có một thầy phong thuỷ nổi tiếng nhất thời bấy giờ.

Thầy phong thuỷ sai dân chúng lên núi Giếng Tiền lấy đất sét về, nhào nặn cho nhuyễn, rồi tự tay ông nặn đất thành hình 25 người đã chết. Ông cứ nặn đến khi nào những người thân thấy giống người chết mới thôi.

Nặn xong 25 tượng đất của hải đội, ông lập đàn cúng chiêu hồn ròng rã suốt đêm, gọi linh hồn các tử sĩ nhập vào tượng đất, rồi đem an táng như người chết bình thường, cũng quần dài, áo the, khăn xếp, cũng quan quách đầy đủ.

Cai đội Phạm Quang Ảnh được chôn đầu tiên, sau đó là 24 lính, xếp thành một hàng gồm 25 nấm mộ.

Sau này, qua nhiều lần mưa gió, xói mòn, đắp lại, 25 ngôi mộ riêng biệt đã thành một ngôi mộ lớn, dài hơn chục mét như ngày nay. Và cũng từ đó những người dân đi biển không may gặp nạn không vớt được xác, người thân của họ trên đảo đắp mộ gió cho họ…

 

Mộ gió giữa ruộng tỏi trên đảo Lý Sơn.

 

"Nhà điêu khắc" của… người âm

Từ ngày có tập tục làm mộ gió, cách nay đã gần 200 năm, đảo Lý Sơn luôn có một người duy nhất làm công việc này.

Trước khi ông thầy cúng chết, bao giờ họ cũng gọi một người tin cậy, không nhất thiết là người thân, đến bên cạnh và trao lại tất cả những tài liệu hướng dẫn cách nặn tượng, cúng chiêu hồn. Người được giao phó trọng trách đều dốc hết tâm sức làm việc.

Theo ông Toại, hồi ông nhận trọng trách kỳ lạ này, cứ như thể ông là người khác, ngày đêm ông miệt mài vùi đầu vào đống tài liệu và không hiểu sao cái đầu của ông khi ấy sáng suốt đến vậy, cứ đọc đâu thuộc đấy.  

Trung bình, mỗi năm ông nặn tượng, gọi hồn, làm lễ an táng cho trên dưới chục người chết mất xác ngoài biển.

Đau lòng nhất là sau những trận bão lớn, có khi ông Toại phải làm lễ an táng một lúc cho cả chục ngư dân.

Người ta dựng lều trước biển, sắp cả dãy quan tài. Ông Toại thâu đêm suốt sáng nặn tượng trong khói hương nghi ngút và gió biển lồng lộng.

Việc nặn tượng thay hình người chết rất công phu. Ông phải lên đỉnh núi Giếng Tiền, là miệng núi lửa đã nằm im từ hàng triệu năm trước để lấy đất sét.

Số lượng đất sét lấy được phải đủ để đắp một hình nhân có kích thước như người thật. Cũng chính vì lý do dùng đất sét nặn hình người chết mà từ xưa đến nay người dân đảo Lý Sơn không bao giờ dùng đất sét làm nhà.

Ông Toại bảo rằng, cây dâu, con tằm là biểu tượng của cuộc sống thiên biến vạn hoá, sự xoay vần của trời đất. Con tằm ăn dâu, nhả ra tơ, đan thành kén, đẻ ra nhộng, sinh ra bướm, mới hoá con tằm.

 

Ông Võ Văn Toại.

 

Cũng chính vì vậy mà ông dùng tơ tằm làm những sợi gân cho hình nhân. Cành dâu chẻ đôi xếp vào bụng tượng đất làm xương sườn. Đàn ông 7 nhánh, đàn bà 9 nhánh xương sườn.

Xương sống, xương ống tay, ống chân đều được làm bằng thân cây dâu. Một vốc đất đen lấy ở chỗ ngã ba đường được nhào nước cho dẻo rồi nặn thành lá gan.

Đốt cây thụ đao, một giống cây bông trắng, trái chùm mọc nhiều trên đảo Lý Sơn để lấy than làm phổi. Than củi thụ đao rất lạ, cứ quánh vào nhau, trông như lá phổi thật. 

Mọi bộ phận của con người, từ mắt, mũi, miệng, tai, đến cả hậu môn, bộ phận sinh dục đều phải đầy đủ như một người thật.

Số đất sét lấy về phải được nặn bằng hết, bởi người ta tin rằng, đất sét còn thừa, rơi vãi, cũng như xương thịt của người chết vẫn còn thất lạc. Những nét cơ bản của người chết phải được thể hiện rõ trên tượng.

Bước cuối cùng là dùng lòng đỏ trứng gà quét lên khắp hình nhân. Khi trứng khô, trông da tượng như da người thật.

Tượng nặn xong thì được mặc quần áo, đồ liệm giống như người thật, linh vị đặt trên mặt, rồi người ta khiêng đặt vào quan tài, để ông Toại làm lễ chiêu hồn.

Lễ cúng chiêu hồn diễn ra rất dài. Ông Toại ngồi đọc hết mấy cuốn sách cúng trong khói hương nghi ngút.

Lời cúng gọi hồn nhập tượng rù rì trước sóng biển ào ào như những áng văn đầy mộng mị: “Cõi u minh khó lòng tưởng tượng/ Chất trong chất đục phong hoá từ đầu/ Ngoảnh sang Đông, ngóng về Tây/ Hướng đi mơ màng dễ lạc bến/ Ôi sắc nước hương trời xa đôi nẻo, lòng dễ mến yêu/ Thuỷ phủ khiến sức nước ngưng/ Buổi sáng trong veo như trang điểm/ Cho hồn các vị tựa hàng tiên/ Tiếng sóng động đông đài/ Tưởng niệm dấu thần phương nao mờ mịt/ Ngóng hồn thiêng xa vời vợi mong được hàm ơn…”.

Một cỗ thuyền mô hình, với những mâm lễ được thả xuống biển cúng linh hồn cùng các vị thần ngự ngoài biển khơi.

Cúng chiêu hồn xong, người ta tin rằng linh hồn người chết mất xác đã trở về nhập vào hình nhân để an nghỉ, phù hộ cho những người thân còn sống.

Người ta thả quan tài xuống huyệt và lấp đất, đắp mồ. Ngày giỗ, người thân ra mộ thắp hương, lễ thanh minh cũng đi tảo mộ như những ngôi mộ khác.

Với khí hậu khô nóng, mưa ít, nắng nhiều, nên những tượng đất dưới mộ ở đảo Lý Sơn được bảo vệ rất tốt. Theo ông Toại, nhiều nấm mộ gió được chôn từ hàng trăm năm trước, khi cải táng ra chỗ khác, tượng hình nhân vẫn nguyên vẹn.    

Đi khắp đảo Lý Sơn, đến bãi tha ma nào cũng gặp mộ gió. Không có đất, người ta đắp mộ gió cả trong ruộng tỏi, ngay trong vườn nhà.

Những buổi chiều sóng yên bể lặng, tôi gặp rất nhiều đàn ông thắp hương quỳ lạy trước mộ gió. Họ tưới rượu trắng lên nấm mồ để cầu vong hồn phù hộ cho chuyến đi biển lúc rạng đông.

Những ngày biển động, sóng to gió lớn, những người đàn bà quỳ lạy trước mộ từ chiều đến nhọ mặt người mới đứng lên. Họ cầu linh hồn người đã chết phù hộ cho chồng, con thoát khỏi hiểm nguy trên biển …

. Theo VTC News

In trang Gửi phản hồi

CÁC TIN KHÁC >>
Làng mới ven đường Trường Sơn  (16/03/2009)
Phố Tây Đà Lạt  (11/03/2009)
Buôn Ma Thuột - niềm tin ở sự đầu tư  (10/03/2009)
16,4 triệu euro xây dựng hệ thống xe buýt  (09/03/2009)
Ra chơi với đảo  (01/03/2009)
Sông Gianh sẽ đón 3 cây cầu mới  (24/02/2009)
Người Cà Doong xuống núi  (10/02/2009)
Làng năng lượng mặt trời  (08/02/2009)
Làng biển Phú Yên ngày được mùa  (06/02/2009)
Gần 700 khách sạn hết phòng từ mùng 4 Tết  (30/01/2009)
Tây Nguyên: Tết ấm lòng người nghèo  (29/01/2009)
Thức cùng Dung Quất  (25/01/2009)
Thuỷ điện Sông Ba Hạ những ngày giáp Tết  (23/01/2009)
Đà Lạt trúng đậm mùa hoa Tết  (22/01/2009)
Miễn vé tham quan di tích Cố đô Huế trong Tết Kỷ Sửu  (20/01/2009)