Từ xưa, đúc đồng là một nghề nổi tiếng và đồ đồng trở nên quen thuộc với con người trên nhiều lĩnh vực như: sản xuất, sinh hoạt đời sống hàng ngày, vũ khí tự vệ, chiến đấu. Trong các di chỉ khảo cổ học, người ta đã tìm thấy các loại khuôn đúc, những chiếc rìu đồng, mũi lao đồng, đặc biệt là những chiếc trống đồng, đã chứng minh cho quá trình phát triển của nghề đúc đồng Việt Nam.
|
Bộ đồ thờ bằng đồng - sản phẩm của làng đúc Bằng Châu - Đập Đá.
|
Sử xưa chép rằng: An Nhơn là kinh đô của vương quốc Chămpa qua nhiều thế kỷ, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của người Chăm khi xưa và là kinh đô của vua Thái Đức - Nguyễn Nhạc thế kỷ XVIII. Sau khi chiếm được thành Hoàng Đế, Nguyễn Ánh cũng chọn An Nhơn làm kinh thành và đem theo nhiều hương khúc nghĩa dũng, thu hút nhiều nhân tài vào an cư tại vùng này. Do những điều kiện đặc biệt nên ngành nghề ở đây phát triển phong phú và đa dạng, cùng với những chính sách mở cửa nên tạo đà cho các ngành nghề thủ công phát triển như nghề rèn, nghề làm nhang, nghề dệt vải, nghề làm cồng chiêng… Đặc biệt là nghề đúc đồng ở Bằng Châu (Đập Đá).
Đập Đá nằm trên đường giao lưu bắc - nam, có 4 thôn: Bả Canh, Bằng Châu, Mỹ Hòa và Phương Danh, tổng diện tích tự nhiên là 503ha. Nghề đúc đồng ở đây đã có từ lâu đời, ông Trần Néo 72 tuổi, người có 3 đời làm nghề đúc đồng cho biết: Nghề này có một cái mốc để chúng ta phỏng tính là: bà Hoàng Sanh là vợ vua Thành Thái, là con gái của một gia đình thợ đúc làng này. Cha bà là một thợ đúc có tài nên được Vua triệu về cung đình Huế để đúc tiền. Bà Hoàng Sanh theo cha ra Huế, nhờ có nhan sắc mặn mà nên được tiến vào kinh làm vợ vua. Nghề đúc đồng ở Bằng Châu cũng giống như bao làng đúc đồng truyền thống trong cả nước về cách làm khuôn, nấu đồng, nhưng cách pha chế thì khác. Để có một sản phẩm đồ đồng hoàn chỉnh ra lò thì phải qua các công đoạn sau:
Nguyên liệu làm khuôn: Dùng đất sét, đất phù sa, trấu sống, bột than trấu, bột sạn chịu lửa, giấy dó, bông gòn… Các vật liệu này lấy từ nơi khác về như Phù Mỹ, Bảy Núi… vì ở các nơi đó đất có độ dẻo và độ kết dính cao. Khi đất sét đem về tất cả được giã nhỏ, rây kỹ, phân cỡ hạt. Trong ngành đúc người ta thường dùng đất sét ở ba dạng: bột, nhão và lỏng, cách chuẩn bị đất sét ở ba dạng này có khác nhau.
Chuẩn bị đất sét bột: Khi đất lấy về để khô và nghiền thô cỡ cục nhỏ 4-25mm, đưa vào sấy ở nhiệt độ 150 độ C cho đến khi độ ẩm còn lại khoảng 5-8% đối với đất sét thường, còn đất sét bentonit thì độ ẩm phải cao hơn. Đất sét sấy xong đem giã nhỏ và rây kỹ.
Chuẩn bị đất sét nhão: Cho đất sét sấy khô vào thùng chứa khoảng 40-70% nước, sau đó nhào kỹ và trộn đều.
Chuẩn bị đất sét lỏng: Cho đất sét cục đã sấy khô vào thùng chứa và pha tỉ lệ 1/2 - 1/4 để khoảng 2 đến 3 giờ cho đất hút no nước, sau đó khuấy đều tạo nên một chất lỏng đồng nhất có tỉ trọng 1,15 đến 1,40 g/cm3.
Theo các cụ già có thâm niên trong nghề đúc ở đây, muốn đúc 1 tấn vật thành phẩm phải sử dụng từ 5 đến 6 tấn đất sét hỗn hợp để làm khuôn và ruột. Trong lúc đúc có 2 nguồn đất được sử dụng: đất mới khai thác về và đất tận dụng lại. Đất mới khai thác về thường không phù hợp với yêu cầu cỡ hạt, độ ẩm, độ sạch cho nên cần phải chế biến như: giã, nghiền, rây, phân loại. Các công đoạn trên làm xong thì tiến hành các công đoạn tiếp theo.
Ủ và đánh tơi hỗn hợp: Nguyên liệu vừa trộn nước xong chưa phân bố đều, chỗ ít, chỗ nhiều - nhất là đất phù sa, đất sét trộn khô nước càng khó phân bố - vì vậy việc ủ hỗn hợp là rất cần thiết. Khi ủ người ta cho đất vào lu, vò hay thùng chứa rồi dùng lá chuối hoặc bao tải đậy kín, sau khi ủ 1 ngày 1 đêm đem ra đánh tơi, tạo độ thông khí cho khuôn đúc, kiểm tra lại độ mịn của hạt.
Chế tạo khuôn đúc: Quy trình chế tạo khuôn đúc được gọi là làm khuôn, bao gồm: Chế tạo khuôn, chế tạo ruột và lắp ráp khuôn là những khâu trọng yếu của nghề đúc. Khuôn có đất phù sa có thể đúc được những chi tiết phức tạp, những chi tiết cực nhỏ và cả những chi tiết cực lớn dùng để đúc những kim loại đen và kim loại màu. Nguyên tắc làm khuôn phải bảo đảm tính chính xác, các dụng cụ làm khuôn như chày giã chuyên dùng bằng gỗ, rây tay, xẻng, chổi lông, thìa đầu phẳng và đầu vũm, quạt tay, móc… Làm khuôn đúc phải có độ bền để khuôn không bị lỏng, vỡ, sai kích thước; khuôn phải có độ thông khí tốt, tránh rỗ hơi rỗ khí. Khi đắp khuôn xong cần được đem sấy từng mảng và phơi khuôn ngoài trời, nếu trời nắng phơi 1 ngày, trời râm phơi 3 ngày, nếu trời mưa phải phơi 6 ngày cho hơi nước bốc dần từ khuôn ra ngoài, sau đó đem nung tạo cho khuôn có nhiệt độ cao để khi rót đồng vào khuôn không bị vỡ. Nếu đúc nồi, bung, bảy, chảo thì nhiệt độ nóng chảy của đồng là 1.000 độ C đến 1.200 độ C; còn đúc các đồ vật trang trí như lư, đèn, đỉnh, tượng thì nhiệt độ nung là 900 đến 1.000 độ C. Tùy theo sản phẩm đúc mà người ta làm khuôn một bìa hoặc nhiều bìa.
Sơn khuôn: Có tác dụng chống cháy và chống dính cát vào vật đúc. Người ta dùng bột than hay bột chì rắc đều lên bề mặt khuôn thành lớp mỏng, rồi miết để chất sơn dính chặt vào thành khuôn. Sơn khuôn từ lúc khuôn còn "tươi" và sơn thành nhiều lớp.
Nhà đúc: Được xây dựng tách biệt với nhà ở, chệch qua một góc của mảnh vườn. Nếu đất thoáng, rộng thì làm nhà 2 mái 2 chái, nếu hẹp thì làm nhà 2 mái. Cột, kèo, xiên, trính… bằng gỗ và tre, 2 hàng cột chạy dọc theo 2 vách chính, còn 2 chái thì có những cột con đỡ phụ; mái nhà thì lợp bằng tranh săn hay tranh rạ, cửa ra vào tùy thuộc theo hướng nhà mà chừa theo hướng Đông, Tây, Nam, Bắc.
Lò đúc: Người ta đào lò ở trong nhà đúc, tránh chỗ cây đòn dông chạy qua. Lò là một lỗ tròn có độ sâu khoảng 0,5 đến 0,6m, một bên chừa một lỗ có nút bịt khi nung, bên kia chừa 2 lỗ để đưa không khí vào hầm lò; trên nền đất xung quanh để các vật liệu cần dùng và các loại khuôn, mẫu… Dụng cụ đưa không khí vào lò là ống thổi thụt bằng tay dựng đứng nối vào trong hầm lò bằng 2 ống tre. Mùa nắng khô thì đào lò âm trong lòng đất, mùa mưa thì đắp nổi trên mặt đất để tránh ẩm ướt, và giữ được nhiệt độ.
Đồ nấu đồng còn gọi là yót làm bằng đất sét. Yót để chính giữa hầm lò, xung quanh đổ than hầm, đốt lửa lò nung đến khi yót đỏ thì bỏ đồng vào. Đồng trước khi bỏ vào yót cũng được đốt nóng, không được bỏ đồng lạnh vào vì nước đồng sẽ bung ra khỏi yót. Đến một nhiệt độ nhất định thì đồng sẽ chảy ra, người ta dùng thìa, vá (làm bằng đất) vớt các tạp chất nổi trên lớp mặt bỏ đi, dùng phễu múc đồng đổ ra khuôn đã chuẩn bị trước. Mỗi lần nấu khoảng 10 đến 15 kg đồng.
Lắp ráp khuôn và chờ rót đồng: Chuẩn bị khu vực lắp ráp khuôn; chuẩn bị khuôn, ruột, lắp ruột vào khuôn để kiểm tra; bố trí khuôn thành hàng thẳng, lỗ rót quay về phía đường đi khoảng cách đủ rộng để quay nồi rót cho dễ. Khi nấu đồng người ta thường pha kẽm, đối với đồng đỏ thì tùy theo tỉ lệ của đồng đúc thành phẩm, còn đồng thau thì pha ít kẽm hơn đồng đỏ. Hợp kim đồng với chì làm giảm nhiệt độ, nhưng lại tăng trọng lượng và tạo độ bền, dai. Hợp kim đồng với thiếc làm tăng độ cứng, kéo dài tình trạng lỏng cần thiết của đồng để đồng bám vào mặt khuôn làm nổi rõ các chi tiết. Nếu hàm lượng thiếc cao quá thì sản phẩm giòn, dễ vỡ. Hợp kim đồng với kẽm tạo sản phẩm có màu ánh xanh; hợp kim đồng với nhôm làm nhạt màu đồng.
Ngày xưa, nghề đúc đồng ở Bằng Châu được làm riêng lẻ từng gia đình theo kiểu cha truyền con nối, họ chỉ truyền nghề lại cho con cháu trong nhà và con cháu xem đây là tài sản do ông cha để lại. Trong gia đình, người cha hay ông nội giữ vai trò thợ cả, là người thông thạo các công đoạn từ khâu nặn khuôn, đúc và hoàn chỉnh sản phẩm; còn các con cháu là những người thợ bạn (phụ), nếu gia đình ít con cháu thì vai trò người thợ phụ ưu tiên dành cho 2 bên nội, ngoại… Lúc thịnh hành (trước 1975), làng đúc Bằng Châu có trên 30 lò, mỗi lò có từ 10 đến 15 người tham gia. Lúc bấy giờ đúc đồng là nghề chính nên họ hết sức giữ gìn bí mật và kiêng cữ sợ người ngoài vào nắm bí quyết của nghề. Nếu đúc tượng thì họ nghiêm cấm phụ nữ đến lò nấu đồng.
Trước kia, làng đúc Bằng Châu tập hợp lại thành từng vùng, từng cụm sản xuất ra các loại sản phẩm: mâm, nồi, chảo, đèn thờ… Lúc đầu các sản phẩm còn thô sơ, quy trình chế tạo khuôn đúc tốn nhiều công sức, khuôn ngoài và khuôn trong dùng chỉ đúc được một lần, thời gian tháo khuôn phải mất 12 giờ, có lúc phải đập bỏ khuôn không sử dụng lại được. Trong sản xuất, bà con làng nghề không ngừng cải tiến kỹ thuật, giao lưu với các làng đúc khác, nên sản phẩm làm ra ngày càng tinh xảo, mang tính mỹ thuật cao. Thời Gia Long đã có một số thợ có tay nghề cao ở đây được tuyển ra Huế, vừa phục vụ trong triều đình, vừa tham gia đúc đồng trong các tượng cuộc, sau mãn hạn lính kinh về quê tiếp tục mở lò đúc đồng. Từ đó, sản phẩm đúc đồng Bằng Châu đã "vượt biên" ra các tỉnh để giao lưu buôn bán. Trong kháng chiến chống Pháp, một số thợ đúc của Bằng Châu tham gia đúc vũ khí phục vụ chiến đấu như đúc vỏ lựu đạn "mãng cầu" tại xưởng quân khí ở Hoài Ân, đúc chông chống càn… Năm 1957 các thợ đúc đồng làng Bằng Châu tham gia nấu đồng để đúc tượng Phật cao 2m nặng 750kg đặt tại chùa Long Khánh (Quy Nhơn). Sau đó, các loại đèn thờ, nồi, bung, mâm, hộp đựng trầu… bằng đồng đã có mặt trên khắp mọi miền đất nước.
Sau năm 1975, hợp tác xã đúc đồng ở Bằng Châu được thành lập, quy trình công nghệ được nâng cao, kỹ thuật đúc tinh vi hơn, cũng là thời gian Bằng Châu nhộn nhịp người buôn bán từ các nơi đổ về, một số sản phẩm được các cơ quan mua về sử dụng như cặp hạc ở Bảo tàng Quang Trung (Tây Sơn). Năm 1986 cùng với các sản phẩm đưa ra thị trường thì thợ lành nghề ở Bằng Châu đã đúc thành công tượng Bác Hồ toàn thân bằng đồng cao 2m nặng 750 kg, hiện đang đặt tại Trung tâm Văn hóa An Nhơn. Từ đó đến nay, làng đúc Bằng Châu làm thêm khuôn ngói, đúc tuýp ghe, chân vịt, cos nước, rôbinê bằng đồng phục vụ cho đời sống nhân dân.
Hàng năm, đến ngày 17-3 âm lịch, làng đúc đồng Bằng Châu lại tổ chức Lễ hội truyền thống của làng nghề. Đây là một hình thức sinh hoạt văn hóa, đưa con người hướng về cội nguồn, tạo nên sự gắn bó với nhau trong cuộc sống cộng đồng, tạo nên bản sắc văn hóa riêng. Vì vậy, dù ai đi đâu, ở đâu họ đều nhớ về Lễ hội truyền thống của làng mình. Làng nghề đúc đồng ở Bằng Châu có nhà thờ Tổ tuy không lớn nhưng rất trang trọng và họ thờ Tổ nghề là thiền sư Dương Không Lộ; ngoài ra còn thờ những vị tiền hiền, hậu hiền là những người có công phát triển ngành nghề. Trong ngày giỗ Tổ, các vị làm nghề tiến hành nghi lễ truyền thống trang nghiêm, trên bàn thờ Tổ thường cúng chay; tiền hiền, hậu hiền cúng mặn, tùy theo mức thu nhập trong năm của làng mà tổ chức cúng to hay nhỏ. Đây cũng là dịp làng nghề tổng kết một năm sản xuất kinh doanh và giải quyết những việc còn tồn đọng. Bà con ngồi lại với nhau trao đổi kinh nghiệm, tổ chức vui chơi, thưởng thức hát bộ 3 ngày 3 đêm tại nhà thờ Tổ.
Ngày nay trong cơ chế thị trường, bà con làng đúc Bằng Châu không làm ăn tập trung như trước nữa, họ lập cơ sở tư nhân, mở xưởng riêng, nhưng đến ngày 17-3 âm lịch hàng năm họ cúng Tổ ở từng mỗi gia đình làm nghề để tưởng nhớ đến người có công truyền nghề. Âu đó cũng là nét văn hóa truyền thống của người Việt Nam.
. Bùi Tĩnh |