Gò Bồi (huyện Tuy Phước) nằm dọc theo dòng sông Gò Bồi, là một chi lưu của dòng Hà Thanh. Gò Bồi thời xưa đẹp và sầm uất đã để lại bao nhiêu hình ảnh với khách thơ:
|
Nắng hàng cau... (nơi yên nghỉ của nhà thơ Hàn Mặc Tử). Ảnh: Hoàng Tuấn
|
Mai chiều lưới gõ đều tay nhịp
Sớm tối thuyền câu thoảng giọng hò.
Dãy phố không dài lắm chừng một cây số, nhà cửa san sát: nhà lầu, nhà ngói, nhà tranh chen nhau soi mình trong bóng nước khiến Gò Bồi nên thơ. Vào những đêm trăng, trăng soi bóng nước, nước gợn sóng lăn tăn, mặt sông như dát vàng, bóng những con thuyền in xuống khiến sông trở nên lung linh huyền ảo. Phải chăng đất thơ đã sinh ra nhà thơ? Nhà thơ tình Xuân Diệu đó. Có lẽ cũng từ những chất thơ của miền đất nhỏ này đã thấm vào hồn Xuân Diệu khiến ông trở thành nhà thơ tình nổi tiếng chăng ?
Cuộc tình của thân mẫu nhà thơ Xuân Diệu cũng đầy thơ mà cũng nhiều nước mắt. Mối tình bắt đầu từ một buổi chiều có một người khách lạ ăn mặc toàn màu đen bước lên bến chợ Gò Bồi. Ông Tú ngơ ngác nhìn quanh có ý dò hỏi tìm người quen và nơi ở trọ để mở trường dạy học. Có lẽ trời xui đất khiến, đã cho bà Nguyễn Thị Hiệp (thân mẫu nhà thơ Xuân Diệu) gặp ông. Cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên và tình cờ này khiến họ quen nhau. Bà Hiệp vốn đã dang dở một đời chồng, trở về quê sống với mẹ, bao nhiêu đau khổ bị dồn nén, bỗng gặp ông đồ Nho xa nhà mưu sinh. Rồi nơi xóm Than bên kia sông, ông đồ dạy học, cũng là nơi những đêm trăng thường tổ chức những cuộc hát hò giã gạo. Họ gặp nhau, ông đồ làm cố vấn cho bên nam, bày những câu hát đáp lại mà bên nữ lại là bà Hiệp. Những câu hò qua, đáp lại khiến họ càng gần gũi và say mê nhau hơn:
Nữ:
Anh ghẹo chi con gái có chồng
Như cơm chan nước lạnh, mặn nồng vào đâu?
Nam hát lại:
Rượu ngon cái cặn cũng ngon,
Thương nhau bất luận chồng con mấy đời.
Những câu hát tình tứ tương tự, cứ dần dần gắn bó đôi trai tài gái sắc. Họ yêu nhau và nên vợ nên chồng.
Xuân Diệu là đứa con đầu lòng chào đời sống nơi quê ngoại.
Quê ngoại là gì ? Quê ngoại là ai
Mà tôi xa cách ba chục năm hoài
Bồi hồi sóng nước bâng khuâng gió
Đầm đậm cá chuồn, thơm thơm khoai.
Sau đó mấy năm thì bà vợ nhà từ đất Nghệ vào. Cuộc tình tan vỡ, Xuân Diệu về với cha ở Collège Quy Nhơn. Thân mẫu nhà thơ Xuân Diệu ở lại Gò Bồi với mẹ. Nỗi buồn thương đã khiến bà càng đau khổ. Người ta thường thấy bà ngồi bên bến sông lơ đễnh, mắt nhìn nơi xa xăm mà hát những câu đầy khổ đau:
Xa nhau vì bởi thế gian
Cho nên lụy nhỏ suốt tràn năm canh
Hồi nào lê lựu một nhành
Bây giờ (kẻ) cuối bãi (người) đầu gành thảm chưa.
Ngoài nỗi đau lìa chồng, bà còn chịu nỗi xót xa vì xa con. Thế mà bà vẫn chịu đựng chờ đợi. Hàng tháng, bà lại đi thăm con một lần ở Quy Nhơn cho mãi đến khi Xuân Diệu thành tài. Nỗi đau thương dường như giảm đi ít nhiều khi hằng năm Xuân Diệu lại về thăm mẹ vào dịp giỗ ông ngoại.
Trong những ngày kháng chiến gian khổ, Xuân Diệu ra Bắc, bà Hiệp ở lại miền Nam theo kháng chiến. Năm 1954, bà tập kết ra Bắc sống với Xuân Diệu. Cuộc hội ngộ sau mười năm xa cách đã đền bù phần nào nỗi buồn mấy mươi năm xa con. Xuân Diệu viết:
Má ơi! Má của con đã già yếu lắm
Má là nguồn gốc của con
Má là vạn Gò Bồi, làng Tùng Giản
Má là sông không cạn núi không mòn
Con chưa kể đời má bảy mươi năm
Một kho tàng hy sinh và nhẫn nại
Thuở ấy bao nhiêu nước mắt thầm.
Thời gian sống với Xuân Diệu ở miền Bắc quả là những ngày hạnh phúc nhất với bà. Bà từ giã cõi đời vào cuối năm 1969 trên đất Bắc. Mãi đến năm 1980, thân xác bà được con trai là Xuân Sanh đem về miền Nam.
Thân mẫu của nhà thơ Hàn Mặc Tử, bà Nguyễn Thị Duy, tuy không sinh ra ở Gò Bồi, nhưng đã gắn bó với Gò Bồi từ năm 1938 - 1939 cho đến cuối đời và thân xác bà còn gởi lại nơi đây.
Khi các con đã lớn, Hàn Mặc Tử và anh chị em đều có cuộc sống riêng tư. Những ngày Hàn Mặc Tử vào Nam theo đuổi sự nghiệp văn chương, Hàn nhớ mẹ lắm. Hàn có bài thơ “Giang hồ nhớ mẹ”, rất tiếc bài thơ không còn, mặc dù chúng tôi tìm kiếm nhiều nguồn tài liệu nhưng vẫn chưa phát hiện ra.
Còn mẹ nhà thơ, bà tìm về trú ngụ tại đầu thôn Tùng Giản, tức Gò Bồi, một xóm quê hẻo lánh, ở nhờ nhà ông Câu Bảy.
Ông Câu Bảy khá giàu, nhà ngói lớn kiểu mới, trước nhà có một ao sen, trước ao sen là dòng sông Gò Bồi. Từ nhà bước ra sông là bến Chuông. Cái làng ven sông này tĩnh lặng và toàn là người theo đạo Thiên chúa. Để mưu sinh, thân mẫu nhà thơ Hàn Mặc Tử làm nghề buôn bán đồ cổ.
Năm 1939, khi Hàn Mặc Tử phát hiện ra mình bị bệnh phong, được tin ở Gò Bồi có một ông thầy thuốc Nam chuyên trị bệnh này, thế là Hàn cũng về trú ngụ với mẹ để chữa bệnh. Hàn về ở đây nhưng ít khi xuất hiện, nhiều khi trốn chui nơi túp lều cuối vườn nhà. Người chăm sóc cho Hàn không ai khác, đó chính là mẹ. Bà đã ngày ngày cơm cháo thuốc thang cho Hàn. Sự hy sinh vô bờ bến ấy chỉ có những người trong gia đình mới biết. Bệnh ngày càng nặng, Hàn Mặc Tử trở lại Quy Hòa và mất. Thân mẫu Hàn Mặc Tử vẫn tiếp tục ở lại Gò Bồi, ngày ngày ra bến Chuông, nhìn về phía Quy Nhơn để nhớ đến người con bất hạnh. Bà sống cuộc đời âm thầm. Mãi đến năm 1949 - 1950, khi họa sĩ Phạm Hổ về đây mở lớp hội họa, chúng tôi theo học và thường gặp nhau tại nhà ông Câu Bảy để thưởng thức trà sen, bàn luận về văn chương. Mỗi lần hội họp, chúng tôi được bà cho uống trà sen. Bà thường ngồi bên cạnh về phía xa, lắng tai nghe, mỗi lần nhắc đến Hàn là đôi mắt bà sáng lên vui sướng.
Bà mất năm 1951 trong âm thầm. Chúng tôi cũng không hay biết gì, nên cũng chẳng đến thăm viếng. Mãi về sau này, khoảng năm 1958 - 1959, chúng tôi mới có dịp nhắc đến Hàn và nhắc đến bà. Nấm mồ nhỏ nhắn của bà được xây bên kia bờ sông, hướng mộ quay về bến Chuông như một nỗi niềm luyến tiếc.
|