* Bút ký của Huỳnh Kim Bửu
Mở đầu truyện thơ Lục Vân Tiên, tác giả Nguyễn Đình Chiểu viết: “Trước đèn xem truyện Tây Minh”. Cụ Nguyễn Đình Chiểu quê Bến Tre mà Bến Tre thời của cụ (cuối thế kỷ XIX) chắc là chưa có đèn dầu hỏa, đèn điện. Vậy thì “đèn” trong câu thơ của tác giả Lục Vân Tiên hẳn là đèn dầu phụng.
|
Đèn dầu phụng. Ảnh: Duy Tân
|
Đèn dầu phụng gồm có hai bộ phận: Đĩa đèn để đựng dầu và một sợi dây bông gòn xe săng làm tim đèn. Gần như tim đèn được nhúng hoàn toàn vào dầu, chỉ có một đầu gát trên vành đĩa. Người ta bật lửa đốt đầu này là có được ngọn lửa sáng leo lét. Tôi cũng thấy những tim đèn làm bằng bông vải hoặc mảnh “vải ta” sạch, ít thấy tim đèn bằng ruột bấc. Tim đèn lớn thì ngọn đèn đỡ leo lét, sáng hơn nhưng lại hao dầu. Đèn thắp lâu thì “tim lụn dầu hao”; lúc đĩa dầu cạn, tim đèn nơi ngọn lửa nở ra những chấm tròn đỏ quạch, xoay quanh tim đèn như đóa hoa mà người ta gọi là bông đèn; khi hết dầu trước khi tắt, đèn phựt sáng rồi lụn hẳn. Má tôi có gánh hàng xén buôn bán luân phiên ở các chợ quê vùng Phủ An. Đêm nào đang ngồi “làm hàng” để sáng ngày gánh ra chợ mà nhìn thấy ngọn đèn dầu có hoa đèn (cũng như nghe thấy tiếng chuột xạ reo trong xó nhà) là má mừng bảo: “Ngày mai nhất định má mua may bán đắt”. Đó là kinh nghiệm dân gian mà má tin (Nhất thời đom đóm vào nhà / Nhì thời chuột rúc, thứ ba bông đèn), còn tôi thì thấy điều má tin cũng có khi đúng và những khi như thế má thường mua nhiều quà bánh về cho lũ con của má ở nhà.
Cũng như bao nhà khác ở vùng quê tôi, ngọn đèn dầu phụng vẫn đêm đêm soi sáng trong ngôi nhà của ba má tôi. Ngọn đèn soi cho mâm cơm cả nhà, cho câu chuyện gia đình sau một ngày làm lụng vất vả… Ngọn đèn cũng soi cho ba chị em tôi ngồi học bài, cho má ngồi vá may… Nhiều hôm, ba tôi cũng thắp một ngọn đèn ở nhà trên ngồi đọc sách (ông vẫn thường đọc đi đọc lại các truyện Tam quốc chí, Ngũ hổ bình Tây… ) hoặc đối ẩm ấm trà ngon và luận bàn “chuyện đời” với ông bạn già hàng xóm. Tôi cũng thường gặp nhiều gia đình ở trong xóm Chùa có những tối ở thầm, không thắp đèn; vì sợ “tốn dầu đèn” hoặc sợ đàn muỗi vo ve ngoài sân theo ánh sáng đèn bay vô nhà (hồi xưa, người ta chưa ngủ mùng như bây giờ). Hồi chín năm kháng chiến, có những đêm văn công về làng dựng sân khấu giữa sân đình, thắp một hàng đèn dầu phụng lên mà biểu diễn văn nghệ. Đèn này là những nắp vung đất nung lật ngửa đựng đầy dầu, còn tim đèn là những con cúi vải của bà thợ kéo sợi trong làng. Đêm diễn nào cũng đông người xem, cũng nhận được nhiều tiếng vỗ tay tán thưởng của khán giả.
Nho sinh “thập niên đăng hỏa” (mười năm đèn sách) đi thi đỗ Cử nhân, Tiến sĩ. Trong số họ, có nhiều người có thực tài, thực học và có ích cho đời. Đó là những gương thành đạt của các nhà khoa bảng Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn… Học sinh trường Trung học Hòa Bình ngày trước vừa đi học vừa tham gia kháng chiến chống Pháp, đã có thời gian phải học đêm thay ngày để tránh máy bay địch bắn phá. Mỗi người đi học xách theo cây đèn dầu phụng (bấy giờ gọi là đèn thẩu - thẩu thủy tinh thay cho đĩa đèn) để chong học. Khó khăn là vậy mà thầy - trò vẫn thi đua dạy tốt, học tốt.
|
Ngọn đèn dầu phụng soi cho học trò học bài (ảnh chỉ mang tính minh họa). Ảnh: Văn Tư
|
Ngọn đèn dầu phụng luôn có mặt trong cuộc sống và là bạn thân thiết của con người. Ngọn đèn làm chứng cho lòng thành thực của người nói: “Nói có đèn làm chứng”. Người ta gởi gắm tâm sự cho đèn: “Đêm khuya rót đĩa dầu đầy / Bấc non không cháy, oan mày dầu ơi!” (Ca dao). Đèn vẫn ở bên cạnh những cảnh ngộ éo le của con người: “Đèn chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn” (Nguyễn Du). Những đêm trăng sáng, lũ nhỏ làng An Định chúng tôi thường ra cổng làng chơi và thường vỗ tay hát rập ràng: “Đèn khoe đèn tỏ hơn trăng / Đèn ra trước gió còn chăng hỡi đèn / Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn / Cớ sao trăng phải chịu lèn đám mây?” (Ca dao). Tôi đã nhiều lần nghe má kể câu chuyện: “Ngày xưa ba bay mới quen má, vẫn thường thức đêm viết những lá thư xanh gởi má. Thư nào, ba cũng kết bằng câu: Thôi nhé, giấy vắn tình dài, đĩa dầu đã cạn, em cho anh dừng bút và hẹn thư sau”! Dân gian có câu chuyện cảm động về một thiếu phụ - vợ chàng Trương - nuôi con và trông chồng đi lính thú về. Đêm kia nàng đang ngồi trước đèn, chợt thằng bé hỏi: “Cha con đâu?”. Nàng chỉ bóng mình in trên vách, trả lời rằng: “Cha con đó”. Sau này, cha bé mãn hạn lính về, nó không chịu nhận con người bằng xương bằng thịt kia là cha nó mà cứ bảo: “Cha là người khác cơ, và cha chỉ đến với mẹ mỗi đêm về”. Điều này khiến cha nó sinh nghi rằng, mẹ nó ở nhà ngoại tình. Thiếu phụ không sao giải được nỗi oan và nàng đã phải tự trầm mình ở bến Hoàng Giang gần nhà để mong được chồng hiểu lòng mình. Khi đêm về, qua ánh đèn đứa bé chỉ bóng người chồng in trên vách và nói “cha con đến đó”, chàng liền hiểu ra nhưng đã muộn. Nhà ông Cả Lễ ở làng trên, mấy đời còn giữ được cái đèn Hoa Kỳ thắp bằng dầu hỏa. Cái đèn ấy, thân đèn và chụp đèn bằng sứ men màu trắng sữa, kiềng đèn và ba sợi dây xích treo bằng đồng. Đèn được chủ nhà treo ở nhà trên với bài trí cổ kính, cho nên vừa hợp vừa sang. Tôi thường thắc mắc, tại sao tên nó là đèn Hoa Kỳ? Mới đây đọc một bài báo nước ngoài, mới được biết nó là cái đèn “quảng cáo” của một hãng dầu hỏa Mỹ hồi đầu thế kỷ trước để họ bán được dầu hỏa ở Việt Nam, vì xứ này lúc đó chưa chịu thắp đèn dầu hỏa thay dầu phụng.
Anh em ruột rà hàng họ với đĩa đèn dầu phụng là bó đuốc, cây đèn chai… Người ta đốt đuốc đi chơi đêm (Cổ nhân bỉnh chúc dạ du - Nguyễn Công Trứ), đốt đèn chai đi soi ếch, nhái… Và, cũng có ngọn lửa đốt lá đa, ánh đom đóm thay đèn cho những anh học trò nghèo đêm đêm “ôn nhuần kinh sử để chờ kịp khoa”.
Cuộc tiến hóa của ngọn đèn tính đến nay đã đi xa lắm: Từ đèn dầu phụng đến đèn dầu hỏa, đến đèn điện. Đèn dầu phụng đã lùi quá xa vào quá khứ, và đối với nhiều người, nó đã khá mờ nhạt trong ký ức hoặc họ chưa bao giờ được nghe thấy.
|