Bà Bốn têm trầu
10:12', 3/10/ 2009 (GMT+7)

Sau cơn mưa bất thường, buổi chợ chiều ở ngôi chợ trung tâm thị trấn Bình Định (An Nhơn) sầm sập tối. Buổi chợ vãn sớm hơn mọi hôm, thế nhưng ở một góc chợ ướt át, một cụ bà vẫn còn ngồi têm nốt những miếng trầu cho đám cưới sẽ diễn ra vào ngày mai.

 

Bà Bốn têm miếng trầu cánh én.

 

Hai tay thoăn thoắt quệt vôi, cuộn những lá trầu, cụ bà Huỳnh Thị Bốn (74 tuổi) ở thị trấn Bình Định móm mém kể: “Tôi tiếp nhận cái nghề têm trầu này từ bà ngoại và mẹ tôi như một cái nghề gia truyền. Đời tôi là đời thứ 3 gắn bó với những lá trầu, quả cau. Lúc mới 13 tuổi, tôi đã lon ton chạy theo gánh trầu của mẹ đi về những buổi chợ đêm được họp trong cửa Đông của Thành Bình Định để giúp mẹ bày biện những mẹt trầu, cau. Nhà ai trong vùng có đám cưới cũng đều tìm đến hàng trầu của mẹ để thuê mẹ têm trầu, chẻ cau cho sính lễ. Nhìn mẹ làm, tôi ngấm ngầm bắt chước. Têm trầu không có gì khó nhưng lúc ấy mẹ không cho tôi làm bởi tôi “chưa đủ tuổi”. Mẹ bảo, têm trầu phải là người lớn tuổi, đã có đôi có cặp và gia đình phải hòa thuận, hạnh phúc thì miếng trầu sính lễ mới mang lại điềm lành cho đôi tân hôn. Những người bán hàng trầu mà đã bị “lẻ đôi” thì không ai đến nhờ têm trầu cho lễ hỏi, lễ cưới, họ e ngại đôi tân hôn sẽ mắc điềm xấu trong đời sống lứa đôi. Mẹ tôi là người “mát tay”, lại thêm vào thời ấy phụ nữ chớm có tuổi là đã biết ăn trầu nên bạn hàng của mẹ tôi nhiều lắm, phải làm việc liền tay. Thời buổi chiến tranh, mua bán rất cơ cực, người mua đông đảo nhưng rất lặng lẽ dưới ánh sáng leo lét của những chiếc đèn dầu phộng. Trong mỗi lều chợ đều có đào một cái hầm trú ẩn, mỗi khi nghe có tiếng máy bay của Pháp trên trời là ai nấy lập tức thổi phụt đèn, chui xuống hầm trú ẩn. Máy bay qua rồi lại chui lên đốt đèn, bày mẹt bán tiếp. Đến khoảng 10 giờ đêm thì chợ tan, mẹ con người gồng gánh, người xách đèn dắt díu nhau về nhà”.

Qua tuổi niên thiếu, khi đã có gia đình riêng, bà Bốn lại sắm cho mình một gánh trầu và chính thức theo nghề “gia truyền” tại chợ Bình Định. Giờ đây, phụ nữ “tân thời” đa số là không ăn trầu. Chỉ còn các cụ bà đã nghiện cái vị đăng đắng của lá trầu, vị nồng nồng của vôi và vị chát chát của quả cau mới còn tìm đến hàng trầu của bà Bốn. Song “đất sống” chính của bà Bốn là các mâm lễ cúng ngày rằm, cúng vọng trang Bà hoặc mâm cúng ngày Tết, và đặc biệt là “hàng đặt” cho những đám ăn hỏi, đám cưới. Bà Bốn nói: “Ông bà xưa có câu “Gái ra có chồng tệ gì cũng phải có miếng trầu héo, chén rượu lạt”, hay “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Vì vậy dù là người “tân thời” đến mấy thì trong những đám cưới hỏi cũng cần phải có mâm trầu cau nên tôi có việc làm hoài hoài. Nếu một cái lễ họ đàng trai đi 2 cặp trà, 2 cặp rượu thì sẽ kèm theo 2 hộp trầu gồm 12 miếng trầu têm và 12 miếng cau. Gia đình khá giả sẽ đặt làm hẳn những mâm trầu gồm cau nguyên buồng (thường là 105 trái) và những lá trầu được xếp quyện vào buồng cau tượng trưng cho sự gắn kết”.

Nghe bà Bốn kể chuyện, hóa ra cái nghề têm trầu cũng phải biết “cải tiến”. Ngày xưa, miếng trầu têm rất đơn giản, quệt vôi lên lá trầu, xếp 2 bên lại rồi cuộn tròn như đầu ngón tay cái là xong. Bây giờ miếng trầu têm phải có hình cánh én. Bà Bốn lấy trên mẹt một lá trầu làm minh họa cho tôi xem. Rất gọn gàng, bà dùng chiếc dao nhỏ cắt 2 bên đuôi lá trầu thành hình cánh én rồi quệt vôi, cuộn tròn từ đầu lá xuống đến 2 cánh én thì dừng lại rồi dùng đầu cây bút bi chọc thủng giữa miếng trầu, găm cuống lá trầu vào đó để giữ không cho miếng trầu bung ra. Loáng chốc bà Bốn đã hoàn thành một miếng trầu cánh én. Chẻ cau cũng vậy. Ngày xưa quả cau chỉ cần gọt bóc hết lớp vỏ xanh bên ngoài, chẻ thành 6 miếng rồi gắn lại như những ngón tay đan vào nhau thì nay phải biết chẻ quả cau thành hình bông sen thì mới “ăn khách”.

 

Vài dĩa trầu cau.

 

Cũng là cái nghề mưu sinh nhưng cái gánh hàng trầu và công việc têm trầu đám cưới của bà Bốn cho thu nhập chẳng là mấy. Trong năm, chỉ từ tháng 4 đến tháng 6 ÂL là công việc có khấm khá đôi chút vì đây là mùa cưới. Thế nhưng, dù “đắt hàng” đến mấy mỗi ngày bà Bốn cũng chỉ têm được 10 hộp trầu, mỗi hộp chỉ được trả công có 5.000đ. Nếu ai đặt mâm cau buồng thì kiếm khá hơn, từ 2 đến 3 trăm ngàn nhưng thảng hoặc mới có một mối như vậy. Những tháng kia thì mỗi ngày kiếm được vài chục ngàn là đã mừng. Bà Huỳnh Thị Bốn tâm sự: “Ông bà cho cái nghề nào thì giữ nghề ấy chứ mưu sinh bằng những lá trầu, miếng cau thì chỉ cầu đủ kiếm gạo chạy bữa. Vào mùa cau (từ tháng 6 đến tháng 8 ÂL) thì 1 quả cau chỉ bán có 200 đồng, hết mùa mới tăng giá được 1.000 đồng. Còn trầu thì luôn giữ giá 200 đồng/lá. Có khi nhiều ngày liền bán không hết, trầu héo, cau úa thì đành chịu lỗ vốn. Thế nhưng bỏ nghề thì tôi quyết không bỏ bởi làm cái nghề này cũng có cái vui. Nhiều cặp vợ chồng trong ấm ngoài êm, họ tin là nhờ miếng trầu tôi têm “vầy” được duyên nên thỉnh thoảng đến thăm tặng quà tưởng công cho tôi. Dù không có gì to tát nhưng tôi thấy lòng ấm áp lắm”.

Sau câu chuyện đầy hào hứng, bỗng dưng bà Bốn trầm buồn rồi nói thêm: “Không biết qua cái đời của tôi rồi có còn ai làm cái nghề này nữa không. Ngay cả 2 đứa con gái của tôi giờ cũng đã không màng đến cái nghề “nghèo nàn” của gia đình 3 đời mẹ truyền con nối thì còn ai chịu để ý đến công việc này”.

Thực tế đang cho thấy như vậy. Cả cái chợ Bình Định khá lớn mà chỉ có hàng trầu của bà Bốn. Mà năm nay bà cũng đã qua cái tuổi thất thập cổ lai hy…

  • Vũ Đình Thung
In trang Gửi phản hồi

CÁC TIN KHÁC >>
Xã hội hóa giáo dục ở Phù Mỹ  (03/10/2009)
Níu kéo… tình yêu  (03/10/2009)
Cần cân nhắc thiệt, hơn  (02/10/2009)
Nỗ lực phục vụ bệnh nhân  (02/10/2009)
Thơ  (02/10/2009)
Mất cả chì lẫn chài!  (02/10/2009)
Tháng Tám chơi đèn kéo quân  (02/10/2009)
Hai kẻ lang thang và vụ án cưỡng đoạt tài sản  (02/10/2009)
Cần sự gắn kết chặt chẽ hơn  (02/10/2009)
Tìm hiểu con kỳ lân huyền thoại qua hình tượng sư tử trong điêu khắc Chăm  (02/10/2009)
Để bền vững cần phấn đấu liên tục  (02/10/2009)
Về các di tích Chàng Lía ở Bình Định  (02/10/2009)
Nơi hội tụ và lan tỏa tinh hoa võ Việt  (02/10/2009)
Luẩn quẩn chuyện tiền và cơ chế  (01/10/2009)
Giấc mơ không giới hạn  (01/10/2009)