|
Công trình cấp nước xã Nhơn Hải (Quy Nhơn) không phát huy tác dụng; người dân đã mất hàng trăm ngàn đồng mua đường ống dẫn nước từ cụm vòi chính của công trình về nhà. |
Khoảng chục năm trở lại đây, trên địa bàn tỉnh đã thực hiện hàng trăm dự án xây dựng hệ thống nước sạch tại các khu dân cư có nguồn nước bị ô nhiễm; đảm bảo được vệ sinh ăn uống và sinh hoạt cho người dân. Tuy nhiên, trong số này còn có những công trình nước sạch quản lý chưa tốt, chưa phát huy được hiệu quả. Người dân rất mong ngành chức năng nên chọn mô hình quản lý nước sạch phù hợp hơn.
Tỉnh ta hiện có 120 công trình cấp nước tập trung (CTCNTT) lớn nhỏ, cung cấp nước sinh hoạt cho khoảng 43.605 hộ dân tại các địa phương có nguồn nước bị nhiễm phèn, nhiễm mặn, nhiễm chất độc hóa học, nhiễm Fluor, nhiễm dầu... Các mô hình quản lý CTCNTT, bao gồm: mô hình quản lý do Trung tâm nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn (NSVSMTNT), Ban quản lý cấp nước huyện, doanh nghiệp, HTX, UBND xã, tư nhân và cộng đồng dân cư thực hiện. Trong số các mô hình nói trên, mô hình quản lý CTCNTT do UBND xã thực hiện là yếu nhất. Hiện, UBND các xã được giao quản lý 12 công trình, nhưng có 3 công trình không hoạt động và nhiều công trình khác có hoạt động nhưng không hiệu quả. Thực tế cho thấy, sau khi nghiệm thu, nhiều địa phương đã bàn giao cho UBND xã quản lý CTCNTT. UBND xã cử một nhóm người tham gia vận hành, dưới sự quản lý kỹ thuật và tài chính của chủ tịch xã. Tuy nhiên, nhóm hoặc tổ quản lý công trình thường làm kiêm nhiệm nhiều việc khác nhau, không có chuyên môn về lĩnh vực nước sạch, công tác vệ sinh hệ thống xử lý ít được thực hiện; vật liệu lọc, hóa chất xử lý nước không được thay thế, bổ sung kịp thời; chất lượng nước cấp không được kiểm soát. Mặt khác, cơ chế tài chính tổ quản lý không rõ ràng, có công trình nguồn thu lớn, nhưng không có kinh phí phục vụ duy tu bảo dưỡng, khi công trình bị hỏng thì không chủ động được nguồn kinh phí để khắc phục. Công trình bị hư hỏng gây lãng phí tiền của của Nhà nước và gây bức xúc trong nhân dân.
Theo Trung tâm NSVSMTNT tỉnh, để khắc phục những hạn chế, tồn tại nói trên, cần phải lựa chọn mô hình quản lý phù hợp. Đối với các công trình trước đây Sở NN-PTNT đầu tư xây dựng, như: CTCN Ân Tường Tây (Hoài Ân), Tam Quan Bắc (Hoài Nhơn), Bình Tân (Tây Sơn), thị trấn Vĩnh Thạnh (Vĩnh Thạnh) đã giao cho địa phương quản lý vận hành nhưng không phát huy được hiệu quả, UBND tỉnh chỉ đạo các địa phương bàn giao lại cho Sở để tổ chức quản lý vận hành theo hình thức: Trung tâm quản lý công trình xử lý nước sạch và chịu trách nhiệm bán buôn; địa phương quản lý đường ống phân phối nước và chịu trách nhiệm bán lẻ. Những công trình, giá nước do địa phương tự ban hành hoặc không phù hợp thì cần xây dựng phương án giá nước sạch trên cơ sở tính đúng, tính đủ, báo cáo đơn vị chủ quản để có văn bản gửi Sở Tài chính thẩm định, trình UBND tỉnh phê duyệt điều chỉnh. Bên cạnh đó, UBND các huyện, thành phố chỉ đạo các phòng chức năng, UBND các xã, thị trấn tăng cường kiểm tra, giám sát công tác quản lý, vận hành CTCNTT nông thôn hiện có; nghiêm túc thực hiện Chỉ thị số 01/CT-UBND, ngày 11.1.2010 của UBND tỉnh và Quyết định số 98/QĐ-UBND, ngày 3.3.2010 về việc ban hành Quy chế quản lý, khai thác, sử dụng các công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn tỉnh Bình Định. Đồng thời, kiện toàn bộ máy quản lý, nhân lực của các đơn vị quản lý, vận hành công trình, cương quyết thay thế các cá nhân, đơn vị không đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ, thiếu trách nhiệm dẫn đến chất lượng nước cấp không đảm bảo theo quy định.
|