Thành tựu kinh tế của Việt Nam trong gần 1/4 thế kỷ qua đã và đang thu hút được sự quan tâm lớn của giới phân tích quốc tế. Báo Foreign Policy của Mỹ vừa đăng một báo cáo của Viện nghiên cứu McKinsey Global đã chỉ ra 10 thành tựu kinh tế Việt Nam có thể khiến công chúng thế giới phải ngạc nhiên. Điều này cho thấy Việt Nam là thị trường mới nổi hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.
1. Tăng trưởng kinh tế nhanh thứ nhì châu Á, sau Trung Quốc
Trong vòng 1/4 thập kỷ qua, Việt Nam từ chỗ là một quốc gia bị tàn phá bởi chiến tranh đã vươn lên trở thành một trong những câu chuyện kinh tế thành công của châu Á. Từ khi thực hiện chính sách Đổi mới năm 1986, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng nhanh hơn bất kỳ một nền kinh tế nào khác trừ Trung Quốc, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người hàng năm là 5,3%.
2. Kinh tế đang dịch chuyển mạnh mẽ khỏi nông nghiệp
Trên thực tế, chỉ trong vòng 15 năm, tỷ trọng đóng góp của nông nghiệp trong GDP của Việt Nam đã giảm một nửa từ 40% xuống còn 20%, một tốc độ nhanh chóng hơn ở các nền kinh tế châu Á khác. Một sự dịch chuyển tương tự phải mất tới 29 năm ở Trung Quốc và 41 năm ở Ấn Độ.
3. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về hạt tiêu, hạt điều, gạo và cà phê
Việt Nam là nước xuất khẩu hạt tiêu lớn nhất thế giới, với khối lượng xuất khẩu nông sản này đạt 116.000 tấn trong năm 2010. Việt Nam cũng dẫn đầu thế giới về xuất khẩu hạt điều trong 4 năm liên tiếp, chưa kể giữ vị trí xuất khẩu gạo lớn thứ nhì thế giới sau Thái Lan, và chỉ thua Brazil về xuất khẩu cà phê.
Chỉ trong vòng có 4 năm, khối lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam đã tăng gấp gần 3 lần. Ngoài ra, Việt Nam đứng thứ 5 thế giới về sản lượng chè và đứng thứ 6 về xuất khẩu các mặt hàng cá da trơn, tôm và cá ngừ.
4. Việt Nam không phải là "Trung Quốc + 1"
Chi phí lao động gia tăng ở Trung Quốc đã thúc đẩy nhiều doanh nghiệp sản xuất ở nước này chuyển nhà máy sang Việt Nam để tận dụng nguồn lao động giá rẻ. Xu hướng này đã khiến nhiều lãnh đạo doanh nghiệp đề cập nhiều tới việc Việt Nam sẽ trở thành một địa chỉ sản xuất hàng xuất khẩu lớn tiếp theo tại châu Á, giống như một phiên bản thu nhỏ của Trung Quốc, gọi nôm na là "Trung Quốc + 1".
5. "Thỏi nam châm" đối với vốn đầu tư nước ngoài
Việt Nam có tên trong hầu hết các danh sách về các thị trường mới nổi hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Các nghiên cứu của Bộ Thương mại và Đầu tư Vương quốc Anh hay Trung tâm nghiên cứu kinh tế Economist Intelligence Unit (EIU) đều xếp Việt Nam là thị trường mới nổi hấp dẫn nhất đối với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) sau khối BRIC gồm các nước Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc.
Lượng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đã tăng lên 71,7 tỷ USD vào năm 2008 từ mức 3,2 tỷ USD vào năm 2003, trước khi giảm xuống còn 21,5 tỷ USD vào năm 2009 do ảnh hưởng của suy thoái toàn cầu.
6. Hạ tầng đường giao thông tiên tiến hơn so với Philippines và Thái Lan
Mật độ đường giao thông của Việt Nam đã đạt mức 0,78 km đường/km2 diện tích vào năm 2009, cao hơn ở Philippines và Thái Lan - hai nền kinh tế đạt mức độ phát triển cao hơn Việt Nam. Cũng trong năm 2009, mạng lưới điện đã phủ khắp 96% diện tích Việt Nam. Những cảng container mới như Dung Quất và Cái Mép, hay các sân bay được nâng cấp ở Đà Nẵng, Cần Thơ… đã tăng cường kết nối giữa Việt Nam với phần còn lại của thế giới.
7. Internet đã trở nên phổ biến đối với thế hệ trẻ
Từ năm 2000-2010, số thuê bao di động ở Việt Nam tăng gần 70% mỗi năm, so với mức tăng chưa đầy 10% mỗi năm ở Mỹ trong cùng khoảng thời gian. Đến cuối năm 2010, Việt Nam có 170 triệu thuê bao điện thoại, trong đó 154 triệu là thuê bao di động.
Đến nay, tỷ lệ người dùng Internet ở Việt Nam có tiếp cận tin tức trên mạng là 94%. Hơn 40% người dùng mạng ở Việt Nam lướt web mỗi ngày.
8. Một địa chỉ hàng đầu cho các dịch vụ gia công và thuê ngoài
Số lao động trong lĩnh vực dịch vụ gia công và thuê ngoài của Việt Nam đến nay đã lên tới 100.000 người, và ngành này đang tạo ra doanh thu hơn 1,5 tỷ USD mỗi năm cho Việt Nam. Nhiều công ty đa quốc gia lớn như HP, IBM hay Panasonic đều đã có cơ sở hoạt động tại Việt Nam. Ngành dịch vụ gia công và thuê ngoài ở Việt Nam có thể trở thành một cỗ máy tạo việc làm cho các đô thị, tạo công ăn việc làm cho thêm 600.000-700.000 người trong thời gian từ nay đến năm 2020, và đóng góp 3-5% vào tăng trưởng GDP của Việt Nam.
9. Tốc độ tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng Việt Nam đang cao hơn so với các ngân hàng của Trung Quốc, Ấn Độ và các nước khác trong ASEAN
Trong thập kỷ qua, tổng dư nợ tín dụng của Việt Nam tăng với tốc độ 33% mỗi năm, mạnh hơn so với ở Trung Quốc, Ấn Độ hay bất kỳ nước nào khác trong khối ASEAN. Đến cuối năm 2010, dư nợ tín dụng đã tương đương khoảng 120% GDP của Việt Nam, so với mức chỉ 22% vào năm 2010.
10. Lợi tức dân số của Việt Nam đang giảm dần
Lợi tức dân số được định nghĩa đơn giản là những ích lợi kinh tế có được từ biến đổi dân số.
Thống kê chính thức dự báo rằng, tăng trưởng lực lượng lao động của Việt Nam sẽ giảm xuống còn khoảng 0,6% mỗi năm trong thập kỷ tới, từ mức 2,8% mỗi năm trong thời kỳ 2000-2010. Bên cạnh đó, sự dịch chuyển "từ đồng ruộng tới nhà máy" của nền kinh tế Việt Nam cũng khó có khả năng diễn ra với tốc độ như trước nữa. Bởi thế, việc cải thiện năng suất lao động là cần thiết đề bù đắp cho những suy giảm nói trên nếu Việt Nam muốn duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao như thời gian qua.
. Theo Thời báo Kinh tế Việt Nam |