(Nhân đọc "Hồi ký điện ảnh" của đạo diễn Đặng Nhật Minh, NXB Văn nghệ - 2005)
Những trang "Hồi ký điện ảnh" đã giúp tôi hình dung 30 năm làm phim vất vả của một nghệ sĩ tài năng. Trong hồi ký này, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường viết lời bạt, gọi "Đặng Nhật Minh - Người kể sự tích dân tộc mình bằng điện ảnh".
|
"Hồi ký điện ảnh" của đạo diễn Đặng Nhật Minh. |
Cuốn sách hấp dẫn vì những chuyện cảm động về gia đình đạo diễn những năm kháng chiến, những chuyện "bếp núc" xung quanh những bộ phim nổi tiếng, giọng văn kể chuyện chân thành nhưng không né tránh. Cuốn sách còn hấp dẫn bởi những suy nghĩ, nhận xét tinh tế, sự bày tỏ chính kiến của tác giả trong đời sống điện ảnh đất nước mấy chục năm qua.
NSND - đạo diễn Đặng Nhật Minh viết rằng: "Tôi sinh ra trong một gia đình không có mối liên hệ gì với nghệ thuật, nhất là với nghệ thuật điện ảnh". Vâng, anh là con của Giáo sư Đặng Văn Ngữ (quê An Cựu, Huế - ở đây hiện có con đường mang tên Đặng Văn Ngữ), nhà khoa học đã chiết xuất ra nước cất penicillin để chữa vết thương cho bộ đội trong kháng chiến chống Pháp. Sau 7 năm tu nghiệp tại Nhật, nghe lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, ông quyết định về nước tham gia kháng chiến năm 1946. Trong chống Mỹ, ông vào chiến trường nghiên cứu một thứ vắc xin miễn dịch rốt rét để chữa cho bộ đội. Ông hy sinh trong một trận bom B52 tại mặt trận Tây Phong Điền, Thừa Thiên vào ngày 1-4-1967. Mãi năm 1992, mới được gia đình đưa về nghĩa trang họ Đặng trên núi Ngự Bình (tr.24).
Còn bà mẹ Tôn Nữ Thị Cung của anh, năm 1950, theo chủ trương của trên, đã từ Huế mang ba con nhỏ lặn lội đường rừng gần ngàn cây số ra chiến khu Việt Bắc. Sống với chồng con chưa được 4 năm thì đột ngột qua đời. Là đứa con mồ côi cả cha lẫn mẹ từ khi còn rất trẻ, nên nỗi đau của con người luôn làm trái tim anh nhức nhối. Có lẽ những bộ phim của anh đã ra đời từ đấy.
Đặng Nhật Minh lúc trẻ đi học ở Liên Xô, về nước làm phiên dịch. Anh không được đào tạo ở trường điện ảnh chính quy. Anh chỉ 2 lần đi "tập huấn" điện ảnh ngắn hạn tại Pháp và Bulgari. Không qua trường lớp chính quy, lại làm đạo diễn trong hoàn cảnh đất nước chưa mở cửa, ai làm phim gì đều do tổ chức phân công, rồi phân biệt đạo diễn chính quy (qua trường lớp), đạo diễn nghiệp dư, rồi chuyện kèn cựa trong các cuộc Liên hoan phim Việt Nam (LHPVN) v.v..
Trong bối cảnh đó, Đặng Nhật Minh đã lặng lẽ chọn cho mình lối đi riêng. Anh viết lấy kịch bản theo cảm hứng từ các truyện ngắn của mình.
Mỗi bộ phim của Đặng Nhật Minh là một bài thơ gắn với những nỗi buồn đau của quê hương, gia đình. Phim của anh là tiếng gọi của trái tim vượt qua những giáo lý cực đoan, những thành kiến hẹp hòi của một thời, để con người đến với thế giới tâm linh thăm thẳm. Xem phim anh, người xem bao giờ cũng phải suy nghĩ đến một lẽ sống đẹp hơn, nhân bản hơn.
Muốn tạo ra được những "vấn đề" ẩn sau những thước phim, đạo diễn phải là người có cá tính, có bản lĩnh sáng tạo. Nhưng anh ít khi toại nguyện với những bộ phim của mình, vì nhiều lúc không thể vượt qua những ngáng trở của khách quan.
Những câu chuyện "đằng sau" những bộ phim được "Hồi ký điện ảnh" kể lại rất cảm động. Phim tài liệu Nguyễn Trãi là thành công đầu tiên của Đặng Nhật Minh (Huy chương bạc LHPVN 1983). Trong kịch bản phim, "đoạn quay ở ải Chi Lăng cần có một con ngựa băng qua một cánh đồng lầy. Nhưng khó kiếm ngựa nên chủ nhiệm phim bắt phải thay con ngựa bằng con bò! Đặng Nhật Minh kiên quyết không chịu... Sau này xem phim, tôi thấy Đặng Nhật Minh đã có lý. Hình ảnh con ngựa khó nhọc băng qua cánh đồng lầy cùng tiếng ngựa hý thảm thiết đã nói lên rất nhiều..." (Hoàng Phủ Ngọc Tường - Lời bạt).
Hay phim "Thị xã trong tầm tay" là một phim hay, giàu chất điện ảnh (Huy chương vàng tại LHPVN 1983), lại bị Hội đồng kịch bản khi duyệt "có 2 ý kiến cực lực phản đối. Một: Kịch bản thiếu kịch tính, thiếu yếu tố để làm thành một phim truyện. Hai: không được nói động đến công tác tổ chức (trong kịch bản có một cảnh cán bộ tổ chức chất vấn nhân vật chính về mối quan hệ của anh ta với cô người yêu có lý lịch không rõ ràng" (tr.82).
Chủ nghĩa lý lịch một thời đã làm thui chột bao nhiêu tài năng trẻ. Điều đó đã được Đặng Nhật Minh thể hiện rất thành công trong phim "Thị xã trong tầm tay". Bộ phim nổi tiếng thế giới "Bao giờ cho đến tháng Mười" lại khởi nguồn từ một đám tang thật ở Quế Võ, Hà Bắc mà đạo diễn ngồi trong quán trú mưa, nhìn thấy.
"Một đoàn người đi lầm lũi trong mưa... Theo sau chiếc kiệu có bốn người khiêng là một phụ nữ trẻ quấn khăn trắng, dắt một đứa con nhỏ. Bà con trong quán cho biết chồng chị là bộ đội đi B, hy sinh đã lâu, nhưng bây giờ người ta mới báo tin cho gia đình biết và làm lễ rước hương hồn người chiến sĩ về nghĩa trang làng. Còn anh nằm ở đâu trong chiến trường miền Nam đến bây giờ không ai biết. Người phụ nữ chít khăn tang đi dưới chiều mưa hôm ấy chính là chị Duyên sau này trong bộ phim Bao giờ cho đến tháng Mười" (tr.88).
Trong phim này, tác giả đã tạo ra trường đoạn chợ âm dương rất tài hoa để người âm kẻ dương gặp nhau, mô tả nỗi đau, mất mát trong chiến tranh của mỗi gia đình Việt Nam, rất phù hợp với tập quán tâm linh dân tộc, nhưng giám đốc phim cho là "mê tín dị đoan" (thực chất là sợ cấp trên không duyệt) nên đã bắt cắt bớt. Do vậy, "... chưa có phim nào của Việt Nam lại phải duyệt đi duyệt lại nhiều tầng nhiều nấc như bộ phim này. Người thì cho rằng "không biết lúc này đã nên nói đến chuyện đau thương mất mát trong chiến tranh chưa?"; "Nên xin ý kiến các anh trên". Cứ như vậy, phải qua 13 lần duyệt, từ thứ trưởng, bộ trưởng cho đến cấp cao nhất, bộ phim mới được "tha bổng". (tr.93- 95).
Mặc dù vậy, khi mới xuất hiện, lập tức phim gây được tiếng vang lớn trên thế giới. Phim đã được giải đặc biệt của Ban giáo khảo LHP tại Honolulu, Hawaii. Đây là bộ phim đầu tiên của điện ảnh Việt Nam đi ra với thế giới từ sau năm 1975.
Kịch bản phim "Thương nhớ đồng quê" dựa theo truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Khi giao cho Hãng phim Giải phóng thì bị trả lại vì "kịch bản thiếu yếu tố để làm nên một phim truyện" (tr.127). Thế mà đây lại là kịch bản được người Nhật đánh giá rất cao và họ đã đầu tư tiền để sản xuất. Điều trớ trêu là phim "Thương nhớ đồng quê" bị loại ra khỏi giải thưởng LHPVN lần thứ XI (1996) nhưng đạo diễn lại được giải Đạo diễn xuất sắc nhất!
Phim "Mùa ổi" lại là câu chuyện về số phận những người tiểu tư sản, trí thức HàNội sau 1954. Đạo diễn lấy ngay những kỷ niệm về gia đình bố vợ của mình ở ngôi nhà 43-Hàng Chuối để viết kịch bản, nên rất xúc động, được người xem trong và ngoài nước nồng nhiệt đón nhận.
Đặng Nhật Minh không chỉ làm phim về thân phận con người, thân phận của đất nước. Anh còn là một "con người chính trị" theo cách riêng của mình. "Người nước ngoài tuy phục dân ta đánh thắng hai đế quốc Pháp-Mỹ, nhưng họ cho rằng người Việt Nam hiếu chiến" (tr.147). Vì thế Đặng Nhật Minh đã chọn "Hà Nội - mùa đông 46", là lúc mà người Việt Nam không muốn có chiến tranh, tìm mọi cách để giành độc lập bằng thương lượng. Vì thế bộ phim đề tài lịch sử liên quan rất nhiều đến Chủ tịch Hồ Chí Minh "Hà Nội - mùa đông 46" nói về số phận của đất nước Việt Nam, đã giành được đồng cảm lớn của bè bạn quốc tế.
Sau khi xem tại LHP Toronto bộ phim "Hà Nội - mùa đông 46" một nhà báo Mỹ đã viết bài đăng trên tờ International Herald Tribune gọi Đặng Nhật Minh là "Nhà ngoại giao con thoi của điện ảnh Việt Nam" (tr.157).
Năm 1987, Đặng Nhật Minh được Mỹ mời sang Honolulu để dự LHP Hawaii. Tại hội thảo này anh đã phát biểu rằng: "...các phim người Mỹ làm về chiến tranh Việt Nam đều giống nhau một điểm: Những lính Mỹ là những con người... Còn đối thủ của họ? Họ không có một thứ tình cảm gì khác của con người, ngoài chiến đấu hy sinh vì lý tưởng của họ. Việt cộng trong các phim Mỹ đều giống Ăngca của Pôn Pốt..".
Phát biểu của Đặng Nhật Minh và hình ảnh chị Duyên trong phim "Bao giờ cho đến tháng Mười" đã làm cho Hội thảo hiểu đúng hơn về Việt Nam. Trong đoàn Mỹ có diễn viên Kiều Chinh, gương mặt sáng giá của điện ảnh Sài Gòn trước đây, giờ là diễn viên Holywood. Cô gặp phái đoàn Việt Nam ban đầu với thái độ lịch sự, xã giao, nhưng rất xa cách. "Thế mà Kiều Chinh sau khi xem phim xong bước ra khỏi rạp đã gục đầu vào vai tôi mà khóc nức nở trước con mắt ngạc nhiên của các đồng nghiệp Holywood" (tr.181-182)
Đạo diễn Đặng Nhật Minh đã được báo Nihon Keizai Shimbun (Nhật Bản) trao giải thưởng về văn hóa năm 1999. Đây là giải thưởng trao hàng năm cho những nhân vật châu Á nổi bật. Và gần đây, tháng 8-2005, anh được LHP GWANGJU ( Hàn Quốc) trao giải Thành tựu suốt đời cho toàn bộ sáng tác của mình. Anh cũng đã được tặng nhiều giải thưởng quốc tế về phim, được mời dự và làm giám khảo nhiều liên hoan phim ở nhiều nước.
Nhưng tôi nghĩ, giải thưởng cao nhất là phim anh đã làm cho hàng triệu khán giả Việt Nam xúc động và làm cho hàng triệu người xem trên thế giới hiểu và yêu mến đất nước Việt Nam hơn. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng nói: "Hãy đi đến tận cùng cái của ta, ta sẽ gặp nhân loại". Rất nhiều nghệ sĩ người Việt nổi tiếng thế giới nhờ họ đã đi đến tận cùng truyền thống dân tộc: Đó là nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị, họa sĩ Lê Bá Đảng, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, giáo sư Trần Văn Khê, nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo... Và Đặng Nhật Minh, theo tôi nghĩ, cũng là một người như vậy.
Đạo diễn Mai Lộc viết: "...có thể nói Đặng Nhật Minh là một... đạo diễn đầy cá tính và tài năng..., có tầm cỡ quốc tế (Lời giới thiệu).
Trong lễ bế mạc LHPVN lần thứ XI, Tổng thư ký Hiệp hội các nhà phê bình phim quốc tế, ông Klaus Eder, người Đức đã đánh giá: "Đạo diễn Đặng Nhật Minh là người đã đưa điện ảnh của các bạn đến với thế giới". Năm 1994, tại LHP Nantes (Pháp), sau khi xem xong phim "Trở về", ông Marcel Martin, nhà phê bình phim nổi tiếng Pháp đã nói với đạo diễn: "Bây giờ thì anh có thể hội nhập với điện ảnh thế giới được rồi" ( tr.145-146). Đó cũng là những "giải thưởng" đích thực nhất.
Sau câu nói đó, Đặng Nhật Minh khiêm tốn nghĩ: "Tôi hiểu câu nói ấy có nghĩa rằng từ nay tôi đã được xếp vào chiếu của làng điện ảnh thế giới. Chiếu dưới thôi. Nhưng được ngồi vào chiếu đó không phải dễ. Muốn ngồi được chiếu trên, chiếu giữa thì khó lắm. Có thể không bao giờ..." (tr.146). Rõ ràng để giành được giải cao tại các cuộc LHP quốc tế như Cannes (Pháp), Berlin (Đức), Venise (Ý), hay cao hơn được đề cử vào giải Oscar (Mỹ), thì vô cùng khó. Muốn được thế, ngoài tài năng, tâm huyết, tư tưởng lớn, điều quan trọng hơn là phải có môi "môi trường điện ảnh" cởi mở, hội nhập với thế giới.
Chuyện kể trong Hồi ký điện ảnh Đặng Nhật Minh âu cũng là bài học nóng hổi đối với giới đạo diễn và quản lý trong làng điện ảnh đất nước.
|