Nhiều lần tôi với Ngô Thế Oanh và Trung Trung Đỉnh lên nghĩa trang Mai Dịch viếng mộ Văn Cao, Xuân Diệu, lần nào chúng tôi cũng nói với nhau: chẳng biết ai là tác giả bức phù điêu chân dung Xuân Diệu tạc trên bia mộ Ông, trông giống Xuân Diệu vô cùng nhưng… buồn quá.
|
Gò Bồi (Tuy Phước) - quê ngoại của Xuân Diệu (ảnh: Đào Tiến Đạt)
|
Liệu khi còn sống Xuân Diệu có buồn đến thế không? Nhìn bức phù điêu cứ như Ông đang khóc.
Giữa xã hội của đồng tiền lụ khụ
Đến nỗi thanh niên cũng thành ra cũ
Người ta thay tình ái tựa sơ mi
Như sạch trong không còn giá trị gì
(Aragon và Elsa)
Những câu thơ ấy Xuân Diệu viết từ năm 1962 cho xã hội phương Tây, bây giờ đọc lại như thấy Ông đang viết về xã hội mình.
Có những câu thơ không cũ, và cùng với những khúc quanh của thời gian, nó dường như mới lại. Dường như Xuân Diệu cũng có những bài thơ dễ dãi, nhất là trong những năm 60, 70, nhưng ta thử đọc một đoạn thơ đơn sơ này xem, viết vào năm 1962:
Một buổi chiều trong bếp nấu cơm
Má đang lặt rau, lửa nhè nhẹ cháy
Một buổi chiều trong vườn sạch lá
Đất còn mang dấu chổi quét ban mai"
(Một buổi chiều)
Những câu thơ thơm mùi đất, mùi bếp lửa, mùi của yêu thương có thể không bao giờ còn trở lại. Xuân Diệu có tập thơ mang tựa đề "Gửi hương cho gió", thì những câu thơ như vừa trích chính là mùi hương của thơ Ông "hoa bưởi thơm rồi, đêm đã khuya", nó nhẹ nhàng mà khiến ta day dứt, nó đọng lại đâu đó trong ta khi gió đã ngừng và những ồn ào đã bặt.
Xuân Diệu có thể viết những bài thơ lộng lẫy, ngân vang như "Nguyệt Cầm", lại có thể viết những bài thơ giản dị như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Ông là một trong những nhà thơ Việt có ý thức làm thơ "như nói" từ khá sớm:
Theo ý má, con là hơn tất cả
Ánh mặt trời, má cũng gửi vào con
Bánh con cho, má để dành lại đã
Con ăn cùng, má mới thấy quà ngon
(Thơ tặng má).
Những ngắt nhịp của đoạn thơ khiến người đọc cảm thấy như tác giả đang một mình trò chuyện với mẹ mình, trong im lặng. Còn đây là một ngắt nhịp khác, như tiếng kêu thốt hồn nhiên của những đứa trẻ, trong bài "Cho chú xin một quả si":
Mấy cháu trai cầm những nhành lá mượt tươi
Điểm những trái nhỏ, vàng, tròn, chín, mập
Một cháu hãy còn ngửa đầu tiếp tục
Nhón gót lên với bẻ những cành la…
Đó cũng là sự kín đáo của kỹ thuật "thơ vắt dòng" mà bây giờ một số người đang khuếch trương. Xuân Diệu, ngay từ thời Thơ Mới, đã có ý thức du nhập "kỹ thuật" thơ Phương Tây, đến nỗi nhiều người kêu Ông làm thơ "Tây quá". Thực ra, nếu chỉ đơn thuần dùng kỹ thuật thơ Phương Tây, dù là kỹ thuật tân kỳ, Xuân Diệu cũng không thể chinh phục được người đọc như Ông đã chinh phục. Chính hồn Việt, hồn Phương Đông, ngất ngây trong đạm bạc, giàu có trong tiết giản đã khiến thơ Xuân Diệu được người Việt yêu thích. Và sự chân thành đến tận cùng, đến không sợ những câu chữ có thể bị coi là ngây ngô, đã khiến thơ Xuân Diệu đặc biệt gần gũi với đời thường.
Dĩ nhiên, đi như cách Ông đã đi trong thơ "đời thường" là đi trên dây, quá một chút sẽ hóa văn xuôi, còn non một chút thì đó là thơ có vần chưa tới. Xuân Diệu, trong rất nhiều bài thơ của mình, đã giữ được sự thăng bằng động ấy, như một nghệ sĩ đích thực. Vâng, một nghệ sĩ đích thực là người thường phải "đi trên dây" trong những tác phẩm của mình. Sự chênh vênh, bập bênh của ngôn ngữ được thể hiện trong tác phẩm lại cũng là một thước đo để người ta đánh giá tài năng của một nghệ sĩ ngôn từ.
Từng là người làm thơ với "ngôn từ đẹp", Xuân Diệu đã tìm đến cái đẹp ẩn khuất của những từ ngữ bình thường, những ngôn từ sù sì và "không đẹp" nếu ta dùng thước cũ để đo. Bài thơ "Đêm ở Thái Bình" đã khiến không ít người phải ngạc nhiên:
Những cây xoan Thái Bình nói gì trên ngọn?
Gió thổi qua biển về thổi qua đồng
Và thổi trên trời: ba mênh mông
Lại cả rằm trăng mây giăng nhẹ khuất
Sẫm thấp chuối chen những tàu rộng mát
Mấy thân cau, vài dăm bụi tre cao
Vạn tiếng côn trùng trong đất xôn xao
Một mặt ao cây vối nghiêng sát nước
Thỉnh thoảng ếch kêu trội hơn tiếng khác
Nhất là chó sủa văng vẳng hay hay.
Thế cũng là thơ ư? "Nhất là chó sủa văng vẳng hay hay" là một câu thơ ư? Hồi ấy người ta hỏi nhau vậy. Bây giờ, khi thơ đã tự giải phóng cho mình bao ràng buộc, đọc lại đoạn thơ này, tôi càng cảm phục Xuân Diệu: Ông đã đi một bước trước. Quả thật, đó là những câu thơ tuyệt hay. Và hiện đại. Là người có kiến văn rất rộng, và rất nhạy cảm, Xuân Diệu đã cùng lúc cho thơ mình chạy trên hai đường băng ấy. Không phải ai cũng phối hợp được sức đọc và sức cảm để có những tác phẩm đầy cá tính. Xuân Diệu là người suốt đời khao khát, suốt đời thiếu hụt.
Tôi đã không ít lần được ngắm nhìn Xuân Diệu… ăn. Ông ăn ngon lành và mê say như thể không biết còn được ăn một lần nữa không. Bây giờ thì tôi hiểu: Ông "đói" đời sống, cái đời sống cụ thể, tươi mởn, tràn trề, sinh động kia, Ông "vội vàng" vì bị cái cảm thức "trôi qua" đe dọa. Chính từ cái chênh vênh giữa tồn tại và hư mất ấy, mà Ông làm thơ. Một quả sấu một quả si hay một quả táo với Ông là cả "một khối hồng". Khối hồng ấy chính là đời sống.
Có lẽ mùa xuân líu lưỡi tôi
Lời dâu tôi nói chửa nên lời
Dâu vừa mơn mởn, vừa xa thẳm
Vừa lá long lanh, hom mát tươi
(Trên bãi sông Hồng)
Bãi dâu ấy với Xuân Diệu cũng chính là đời sống. Ông là một trong những nhà thơ ngợi ca đời sống tuyệt vời nhất không chỉ của thơ ca Việt Nam. "Thèm đời sống" là cái thèm đặc trưng trong thơ Xuân Diệu. Có lẽ nên đọc Ông bắt đầu từ đó. "Cay sống mũi như là ăn rau cải" (Lệ). Tôi chưa thấy ai có một so sánh đột ngột như thế, cái cảm giác "cay sống mũi" lúc muốn khóc lâm li hơn cái cảm giác "cay sống mũi" khi ăn rau cải cay hay mù tạt chứ ạ!
Thơ Xuân Diệu đã vượt qua sự "lâm li" truyền thống ấy để nói với ta một điều: cảm giác là cảm giác. Và khi là cảm giác về đời sống, của đời sống thì tất cả đều có thể tương đồng. Dường như Apollinaire cũng đã ngợi ca một cảm giác như thế.
|