Bước đầu của tôi
16:17', 24/11/ 2005 (GMT+7)

. Chế Lan Viên

Anh đã học viết văn như thế nào?

Tôi sẽ trả lời gẫy gọn câu ấy nếu như một tỉnh nào khác hỏi tôi. Nhưng đây lại là của Bình Định. Tôi bối rối quá! Quê mẹ, quê gốc tôi ở Quảng Trị. Nhưng chính tại Bình Định này mà tôi đã viết bài văn đầu tiên, ra tập thơ đầu tiên. Chao ôi! Nhớ biết bao người, bao cảnh, bao sự việc đã giúp mình nên người nên văn ở đấy! Khéo mà tôi lại làm hồi ký mất, rồi lẩm cẩm dây cà ra dây muống kể lể linh tinh lắm thứ, quên mất cả những kinh nghiệm viết văn mà các bạn chờ.

Khó cho tôi còn ở một điểm khác: chuyện lâu quá rồi, nửa thế kỷ rồi, nhớ sao cho hết? Tập thơ đầu tay Điêu tàn của tôi ra năm 1937, khi tôi còn là học trò thầy Ấm (cụ thân sinh của nhà văn Phan Tứ - Lê Khâm), thầy Hảo, thầy Chí, thầy Vỹ… năm thứ ba trường Trung học Quy Nhơn. Nhưng năm 1936, 1935 trước đó, tôi đã có thơ đăng ở báo Tiếng Trẻ, truyện ngắn ở báo Khuyến học và truyện vui nghìn chữ Xe và Xe ở báo Phong Hóa ngoài Hà Nội. Như thế thì 1933-1934, tất tôi đã quanh quất mon men đâu đấy ở bên rào bên rìa ngoại vi văn học ấy. Cái gì đã đưa tôi đến địa hạt đó? Bài văn hay nào đã thức tỉnh cho tôi biết cái hay của văn, rồi sau đó bắt chước làm theo, theo như quan điểm của Aristote? Ông nói: "Hai nguồn gốc của thơ thì một là bắt chước". Vậy thì tôi đã bắt chước bài văn hay nào?

Răng sạch không bao giờ sâu

Răng sâu trông thực là xấu

Đánh răng thì phải đánh

Cả trên lẫn dưới

Cả trong lẫn ngoài

Chả lẽ là bài văn ấy mà giờ tôi viết dưới dạng thơ cho các bạn may ra có thể xúc động như tôi. Ngoài sáu mươi tuổi, ngoái cổ lại sau, nhớ lại cảm giác thơ đầu tiên, mối tình đầu của mình với thơ là ở phút nào thì vẫn nhớ cái khoản sâu răng ấy. Khi tôi lên bảy, lên tám tuổi, đang học ở Điện Bàn (Quảng Nam). Thầy giáo bệnh nghỉ. Em vợ thầy giáo dạy thay một buổi. Chả biết làm gì, anh ấy lấy quyển giáo khoa Vệ sinh ra đọc chính tả cho chúng tôi viết. Em vợ của thầy là điều mới lạ rồi. Tiếng Huế với chúng tôi ở một huyện Quảng cũng lạ. Và cách đọc chọi chữ sạch (trắc) với sâu (bằng), chọi chữ sâu (bằng) với chữ xấu (trắc)… cách anh ấy cắt đoạn cả trên lẫn dưới sao cho nhịp nhàng với cả trong lẫn ngoài… càng lạ hơn…

Tổng cộng những cái lạ ấy gây cho tôi một sự phấn chấn lạ thường, thơ là gắn liền với lạ mà: Giờ đây nhớ lại vẫn còn nghe vang vang cái giọng Huế đọc bài "Răng sâu" ấy. Nhớ cả dáng anh ấy đi lại nhẹ nhàng giữa lớp học im phăng phắc, tiếng gió ngoài sân và ánh nắng trên cửa kính nhà trường. Aristote lại nói đúng. Trong hai nguyên nhân làm ra thơ, theo ông, một là sự bắt chước, còn hai là cái này đây: lòng yêu thích nhịp điệu, yêu thích hài hòa.

Hình như tất cả các em đều trải qua một phút được chấn động, được thức tỉnh như vậy chứ không phải chỉ có những người làm thơ. Có điều em này được đánh thức liền dậy; em kia ngủ tiếp; em kia nửa thức nửa dậy, không làm thơ nhưng làm thứ khác, v.v… Bồi dưỡng cho các em tức là sau khi các em được chấn động bởi tiếng vang ban đầu, ta phải tiếp tục nuôi cho các em sự rung động thường xuyên. Nuôi bằng gì? Bằng những bài văn, cố nhiên, nhưng phải là văn hay kia, chứ không phải loại "răng sạch, răng sâu" đâu nhé! Vì chỉ có văn hay mới đẻ ra văn hay được. 1935: Yến Lan học trên tôi hai lớp, bày cho tôi một bài Tản Đà, nay còn lưởng vưởng trong óc tôi:

Gió mùa thu. Lá vàng bay. Các cậu đi học. Áo rách thì mẹ vá. Không có áo lành thì mẹ may… Công mẹ không đến nỗi như mùa thu lá vàng rụng bay v.v…

Nhờ những bài thơ hay của Leconte de Lisle viết về chiến trường, tôi viết bài Chiến tượng. Nhờ văn Chiêu hồn của Nguyễn Du, nhờ Ác hoa (Fleurs Du Mal) của Baudelaire, tôi viết về cái chết trong Điêu tàn vốn đã gặp nó ở bãi tha ma và sọ dừa trong phòng thí nghiệm của nhà trường.

Nhưng chuyện lấy văn nuôi văn, ta bàn đến sau. Một nhà thơ nước ngoài đã viết "Cái chỉ là thơ thôi, giết chết thơ". Một mình thơ làm sao đẻ ra thơ được? Nó phải kết hợp với gì chứ? Với mảnh đất này. Các nhà báo, nhà nghiên cứu có nhiều kinh nghiệm, khi tìm hiểu một tác giả, thường cứ day đi day lại câu hỏi: "Ngày nhỏ anh sống ở đâu?" Cho tôi biết ơn cái tháp Chàm và thành Bình Định cũ, biết ơn cái huyện lỵ An Nhơn hẻo lánh và những chuyến tàu đêm Bình Định- Diêu Trì, biết ơn bờ biển Quy Nhơn vỗ sóng ru tôi và ơn những rừng dừa rợp bóng bên tôi.

Cành dừa cao say sưa ôm bóng ngủ.

Chính là dừa ấy chứ còn đâu? Tôi không theo thuyết ba chữ M - momen (thời gian), mode (phong trào), milleu (địa điểm) - thế kỷ thứ XIX của Pháp nhưng tôi phải biết ơn là đã được sống ở Bình Định thời gian ấy, qua những địa danh kia. Sau này thơ tôi có day dứt về sử.

Đất nước làm thơ mà thiếu người viết sử chính là tôi đã lớn lên trên đất sử từng lẫy lừng Chàng Lía, Mai Xuân Thưởng, Quang Trung… Trong Điêu tàn có nói đến nỗi đau mất nước vì 1937, cùng với Nguyễn Viết Lãm, Phú Sơn, chúng tôi đã là bạn thân, là anh em của những người cộng sản, đặc biệt là anh Nguyễn Minh Vỹ lúc ấy là linh hồn của nhóm.

Chả lẽ lại nói những kiểu kiến trúc đặc biệt của nhà lá mái, cửa bàn khoa Bình Định, hay cái vòng quay kiên trì triền miên của các xe nước ngoài Quảng Ngãi đã cho tôi sự chịu khó trong thơ? Nhưng quả là những đêm hát bội ở An Thái, các cuộc đổ giàn ở An Vinh làm cho tôi yêu chất hùng tráng - sau này ta gọi là sử thi hay là gì nhỉ? Rồi đây các bạn cũng nên tổ chức lại trò đổ giàn, đó chả là Olympic của ta đấy sao? Một cái giàn cao hàng chục mét, có con heo quay trên ấy và dưới đất có hàng đoàn võ sĩ từ Quy Nhơn, Đập Đá lên, Bình Khê xuống, Hoài Ân, Hoài Nhơn vào, cùng với các võ sĩ An Thái, An Vinh tại chỗ đang chờ đợi. Khi con heo ném xuống là một cuộc "tỉ thí lôi đài" dữ đội để giành cho được con heo kia, dấu hiệu đoàn nào sẽ là vô địch năm nay.

Chất hùng ca trong thơ làm sao không dính líu, cái dây đồng trong thơ, làm sao không dính líu với các cuộc đổ giàn thượng võ này? Blake nói khá đúng là "văn hóa đi bằng lối thẳng, còn nghệ thuật thì đi các lối ngoằn ngoèo". Trong Điêu tàn các yếu tố thần bí vì tuổi trẻ tôi tìm trong tiếng tụng kinh trước bàn thờ Phật của cha tôi và trường tôi nằm trong tầm ngân vang của chuông nhà thờ đạo Kim Châu gần đấy.

Những yếu tố thần bí gặp trong đêm tuổi thơ Bình Định, khi tôi lớn lên gặp Đảng, nó không biến mất đi mà lại hóa ra thứ khác giữa ánh sáng ban ngày. Đấy là các câu thơ đánh Mỹ:

… Kinh địa tạng xé theo súng 12 ly 7.

… Những năm chiến tranh mặt Chúa cũng sầu thương

… Mặt Phật không cười cùng hoa sen nữa…

Giữa quá khứ và hiện tại vừa có đứt, vừa có nối. Nên nối cái gì, để đứt cái gì là nhiệm vụ người viết phải lo. Nhưng quả là để tạo nên một người viết văn, cần nhiều yếu tố, nhiều chất, nhiều cảnh, nhiều tình cụ thể của cuộc đời cụ thể này chứ chỉ văn chưa đủ, dù cho đấy là văn hay đến tuyệt vời.

Cần, đúng rồi, nhưng sao lại phải nhiều? Có nhiều mới đa dạng, phong phú. Có nhiều mới không đơn giản và đơn điệu. Có nhiều thì mới tổng hợp được, chứ ít thì tổng hợp nỗi gì?

Marinetti nói: "Thơ là say và tổng hợp!? Aristote nói: "Thơ tổng hợp hơn sử vì sử đi vào cụ thể". Do đó thầy giáo vừa phải tạo cho các em sống được nhiều, biết được nhiều điều cụ thể vừa phải giúp cho các em biết tổng hợp, liên hệ, khái quát, biến hóa các cái cụ thể ấy. Vừa phát triển các giác quan, vừa tập luyện sự thao tác của tư duy:

Cao Bá Quát viết:

Mặt trời đẻ trứng gà trên vách

Nguyễn Du Viết:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi

Tương An viết:

Bốn dây ứa máu tỳ bà

Hàn Mặc Tử viết:

Tiếng gà gáy rụng trăng đầu hạ…

Tức là không phải chỉ cảm xúc mà còn làm hóa chất giữa các cảm xúc.

Ở trên, tôi có nói tôi là học trò thầy Hảo, thầy Ấm, thầy Vũ, thầy Chí. Chỉ có mình thầy Hảo dạy văn. Tôi yêu văn chính nhờ không phải chỉ sự uyên bác của thầy mà cả ánh mắt ngầm cổ vũ của thầy. Nhưng không có toán của thầy Ấm, khoa học của thầy Chí, sử địa của thầy Vỹ thì làm sao tôi biết cộng sự vật này cùng sự vật kia, nghĩ rằng sự vật này có thể biến thành sự vật kia, thậm chí con tầm là bướm đấy thôi, sự vật này chính là sự vật kia đấy. Có được óc phân tích là nhờ các thầy, mà có được óc tổng hợp Marinetti, Aristote ca tụng trên kia cũng là nhờ ở các thầy, đúng hơn, nhờ ở vốn văn hóa mà các thầy truyền đạt cho tôi.

Một thuyết lớn ảnh hưởng tất cả nền thơ châu Âu hiện nay là thuyết Correspondances (tương giao), thuyết này có cách đây hơn 200 năm trước. Ở tiểu học Bình Định, tôi đã gặp các mùi hương, các màu sắc, các âm thanh. Nhưng về đến Quy Nhơn, khi anh N.M.Vỹ giảng cho tôi Baudelaire thì tôi mới biết thuyết ấy, biết rằng:

Les parfums, les couleurs et les sons se répondent

(Mùi hương, màu sắc và những âm thanh tương giao cùng nhau)

Ừ, cơn rét có thể ngọt lắm chứ, màu đỏ có thể kêu vang, và tôi nghe thấy lạnh khi chiều xuống, khi gió thu về… Các cảm giác tương giao, tương hỗ.

Và giữa lúc ấy thì các thầy khoa học dạy cho tôi về chuyển hóa năng lượng, cơ năng biến thành nhiệt năng, nhiệt năng thành điện năng và điện năng thành ánh sáng… Những điều khô khan ấy giúp cho tôi sau này hiểu được câu của nhà triết học Nga "đá và lá cùng một chất"; yêu thơ Pháp Đá và hoa và hai chặng của một tư duy và đặt tên tập thơ của mình là Hoa trên đá vừa rồi, biết đâu không nằm trong mạch ấy?

Rút ra kinh nghiệm gì, hỡi các nhà thơ và các nhà giáo, các nhà giáo có thể già, các nhà thơ thường rất trẻ? Cái kinh nghiệm này đây, là làm thơ chỉ biết có thơ thôi, không được. Làm thơ với trái tim, với chất sống, không đủ. Phải có văn hóa nữa. Quang năng không làm hại gì đến các trang thơ và dù trang thơ viết về bóng đêm cũng nên viết nó dưới nguồn điện sáng.

16-3-1986

. Theo Báo Văn nghệ số 47-2005

 

Nhà thơ Chế Lan Viên tên thật là Phạm Ngọc Hoan

Năm sinh: 1920. Quê quán: Quảng Trị

Tác phẩm chính: Thơ: Điêu tàn (1937), Gửi các anh (1954), Ánh sáng và phù sa (1960), Hoa ngày thường, Chim báo bão (1967), Những bài thơ đánh giặc (1972), Đối thoại mới (1973), Hoa trước lăng Người (1976), Hái theo mùa (1977), Hoa trên đá (1984).

Văn xuôi: Vàng sao, Những ngày nổi giận, Giờ của số thành, Phê bình văn học, Suy nghĩ và bình luận, Bay theo đường dân tộc đang bay, Từ các Khuê Văn đến quán Trung Tân, Nghĩ cạnh dòng đời, Nói chuyện thơ văn (bút danh Chàng Văn), Vào nghề (bút danh Chàng Văn).

In trang Gửi phản hồi

CÁC TIN KHÁC >>
60 năm - một chặng đường di sản  (24/11/2005)
Xuất bản giáo trình về ca kịch bài chòi  (24/11/2005)
Trao bằng công nhận cho 46 di tích lịch sử - văn hóa  (24/11/2005)
Nhớ anh Trần Minh Đại  (23/11/2005)
Thơ về Quy Nhơn quê chồng của một nàng dâu người Hà Nội  (23/11/2005)
Khi con tàu ra đi…  (22/11/2005)
Trao giải thưởng Đào Tấn cho Giáo sư Trần Văn Khê  (22/11/2005)
Phong trào văn hóa văn nghệ ở vùng cao Hoài Ân  (22/11/2005)
Múa Chăm - một đặc trưng của văn hóa Chăm  (21/11/2005)
"Dầu cù là đây!", dầu cù là đâu ?  (20/11/2005)
Bến và cầu  (18/11/2005)
Thơ Nguyễn Ngọc Hưng, Nguyễn Thị Cúc  (18/11/2005)
Vén màn một "sự thật tàn bạo"  (18/11/2005)
Đọc lại Xuân Diệu  (17/11/2005)
Vài cảm nhận về một tập thơ tôn vinh nhà giáo  (16/11/2005)