Xuất hiện khá thường xuyên trên báo Văn Nghệ của Hội nhà văn Việt Nam từ đầu những năm 70 dưới tên Nguyễn Đức Quyền và viết cho mục "Sổ tay người yêu thơ", nhưng với nhiều thế hệ học trò ở Hà Tây, Hải Phòng và nhất là Quảng Ngãi, nhà bình thơ xuất sắc ấy được gọi một cách kính trọng và đơn giản là "Thầy Quyền".
Bởi một điều cũng đơn giản: anh là nhà giáo trước khi là nhà phê bình văn học, và là nhà giáo đứng trên bục giảng liên tục 40 năm, cho tới ngày anh qua đời. Thầy giáo Nguyễn Đức Quyền là một nhà giáo-nghệ sĩ. Nhưng dù nghệ sĩ cách mấy, anh vẫn là nhà giáo tận tâm, hết mình với học trò, và thực sự anh đã "chuyển lửa" đến nhiều thế hệ học trò, ngọn lửa của tình yêu văn học, sự kính trọng vô bờ đối với văn học, niềm tin khăng khăng như Dostoievski hằng tin, rằng cái Đẹp, rằng văn học sẽ cứu chuộc được thế giới.
Trong những giờ giảng văn tại lớp, trong những trao đổi bình đẳng và thân mật với học sinh ngoài giờ chính khóa, thầy Quyền bằng giọng nói nhiệt tình hiếm thấy của mình luôn cổ vũ cho văn học, cho Thơ, luôn muốn tìm sự đồng cảm trong tình yêu văn học với học trò của mình, trước khi tìm đến sự đồng cảm của người đọc qua những trang viết.
Là tác giả của hàng vài chục đầu sách, cả sách tham khảo văn học lẫn những tác phẩm bình luận văn chương, sau khi thầy Quyền mất khá lâu, những cuốn sách ấy vẫn được tái bản nhiều lần. Đó cũng là một điều hiếm thấy ở một người thầy giáo bình dị và nhiều khi bị khuất lấp như thầy Quyền.
Tôi cứ nhớ mãi giọng nói buồn buồn của thầy Quyền khi nhắc đến tiền lo cho việc ăn học của mấy đứa con mình. Rất may là mấy cháu con của thầy đều rất ngoan và học rất tốt, nhưng để lo được cho con những món tiền nhỏ đóng học phí hay mua vật dụng học tập, nhiều khi thầy Quyền phải cắn răng "bán lúa non" - bán trước những bản thảo của mình cho các "bậc" đầu nậu - với giá bèo. Trong chuyện đó, thầy đã ở vào thân phận của nhiều nhà văn Việt Nam.
Ngày thầy đột ngột qua đời, gia cảnh ở vào hồi rất khó khăn. Tôi nhớ, buổi sáng đưa tang thầy lại trùng với ngày khai giảng năm học mới, và rất nhiều học trò hay đồng nghiệp đã không thể bỏ buổi khai giảng để đưa thầy một quãng đường cuối cùng.
40 năm đứng trên bục giảng, từng "lưu lạc" qua rất nhiều trường cấp 3, thầy Quyền đã có một khoảng thời gian trong đời đứng trên bục giảng của trường cấp 3 Tư Nghĩa 1. Hẳn những lớp học trò ngày ấy còn nhớ giọng giảng bài lúc nào cũng đầy đam mê, đầy nhiệt huyết của thầy Quyền.
Có những em học trò ngày ấy, nay đang theo học hoặc làm việc ở nước ngoài vẫn nhắc hoài đến những giờ giảng văn đặc biệt của thầy Quyền. Khi có điều kiện du học, được dự những giờ lên lớp của các giáo sư ngoại quốc ở những nước phát triển, các em càng thấy cách dạy văn của thầy Quyền là hiện đại. Đó không phải là cách dạy như ở ta vẫn thấy thường ngày: thầy cắm cổ đọc, trò cắm cổ chép, và càng chép thì càng…mờ mịt, không hiểu gì cả. Cách dạy văn của thầy Quyền nhẹ nhàng biết bao, thầy khơi gợi hơn là áp đặt, đối thoại hơn là độc thoại, tìm đến nhận thức của học trò hơn là chỉ chăm chăm nói ý mình, bất chấp học trò có tiếp nhận hay không.
Lý thuyết tiếp nhận hiện đại cũng chỉ rõ: tiếp nhận luôn là quá trình từ hai phía, chủ thể tiếp nhận quan trọng hơn khách thể truyền đạt, và khi có sự "đồng thanh tương ứng" giữa khách thể truyền đạt và chủ thể tiếp nhận, thì đó là đỉnh điểm của hiệu quả.
Những năm dạy học đầy khó khăn, thậm chí nghèo khổ của thầy Quyền đã không vô ích. Những bài giảng văn cởi mở, dân chủ của thầy đã được nhiều thế hệ học trò tiếp nhận, dù sau này rất nhiều em không đi theo con đường văn học, nhưng hành trang văn học luôn có trong các em giúp các em hiểu đời, hiểu người, yêu đời và yêu người hơn.
Làm sao mà những giờ giảng văn lại là những giờ nhàm chán được, khi thầy yêu văn học đến vậy, và cảm nhận văn học đến độ sâu sắc vậy, còn học trò thì tìm thấy trong ngọn lửa tình yêu văn học của thầy niềm vui và sự hứng khởi học tập đến vậy.
"Tiên học lễ, hậu học…văn", văn đây dù nghĩa rất rộng nhưng phải thấy gốc rễ của nó là văn học. Thầy Quyền đã thấu hiểu điều này, và thầy tự an vui trong nghề dạy văn của mình, một nghề rõ ràng là "bán cháo phổi" vì phải nói rất nhiều, thậm chí nói rất say sưa. Nhưng bù lại, tôi biết thầy Quyền cũng được rất nhiều, dù những cái được ấy chỉ thuần túy tinh thần.
Thầy không phải là thầy dạy cua nhiều học trò, không thu nhập được gì mấy từ việc dạy thêm, cũng không kiếm được bao nhiêu tiền nhuận bút từ những bài bình thơ, những cuốn sách văn học hay giảng văn. Cái thầy thu nhập được, là tình yêu đối với văn học của nhiều thế hệ học trò, trong đó có học trò trường cấp 3 Tư Nghĩa 1, là sự cảm nhận tinh tế trong mỗi bài bình thơ khiến người đọc yêu thơ hơn, quen với thơ hơn.
Thầy Quyền đã làm công việc của người lái đò, không chỉ đưa học trò lên những lớp cao hơn, mà còn đưa người đọc thơ tới những bờ bến còn mơ hồ của Thơ. Một trách vụ song đôi như thế ở một người thầy và một nhà phê bình văn học là điều bây giờ rất phổ biến ở những nước phát triển, trong các trường đại học lớn. Rất tiếc, cho đến khi lìa đời, thầy Quyền cũng không được công nhận bất cứ danh xưng gì, là "nhà giáo ưu tú" hay "hội viên Hội nhà văn Việt Nam" dù thầy hoàn toàn xứng đáng với những danh xưng ấy.
Nhưng chẳng sao, thầy Quyền chỉ đơn giản là… thầy Quyền. Trong lòng nhiều thế hệ học trò. Là "anh Quyền", "bạn Quyền" trong lòng nhiều bạn văn chương gần xa. Mới đây, từ Hà Tây, tôi nhận được thông tin có người đã "mượn tạm" của thầy Quyền một bài bình thơ từ mấy chục năm trước mà thầy ký dưới bút danh để… in lại, kiếm mấy đồng nhuận bút ít ỏi. Thôi cũng đành! Và tôi nghĩ, đó cũng là niềm vui của một người viết văn: được người khác "mượn tạm" văn mình. Nghĩa là văn ấy phải hay, phải thế nào thì người ta mới "mượn" chứ! Dưới suối vàng, hẳn thầy Quyền cũng mỉm cười.
Quảng Ngãi ngày sắp hết học kỳ một
|