(Đọc "Văn hóa dân gian xã Nhơn Thành" của Mai Thìn)
Làng là khung cảnh quan trọng nhất của văn hóa dân gian, nó không những là đơn vị hành chính, kinh tế, quân sự mà còn là một đơn vị văn hóa hoàn chỉnh. Từ xa xưa ông cha ta đã lưu truyền những câu tục ngữ "Chuông làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ"’; "Đất vua, chùa làng, phong cảnh bụt"... Chính trong khung cảnh làng xã ấy đã hình thành nên một môi trường văn hóa mang những nét đặc trưng. Trong những năm gần đây, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đã tài trợ cho một số công trình nghiên cứu về văn hóa dân gian làng xã có giá trị mà cuốn Văn hóa dân gian xã Nhơn Thành của tác giả Mai Thìn, do NXB Khoa học xã hội ấn hành 2004, là một trong số đó.
|
Chợ nón Gò Găng (xã Nhơn Thành). |
Để viết về văn hóa dân gian của một làng, tác giả phải có tình cảm cũng như sự am hiểu sâu sắc về làng quê đó. Thật may mắn, Mai Thìn vừa là người bản địa vừa có lòng tự hào về truyền thống quê hương, về mảnh đất mình đã từng gắn bó nên đã tạo nên linh hồn cho tác phẩm Văn hóa dân gian xã Nhơn Thành. Xét về mặt nào đó có thể coi cuốn sách là một dạng địa chí văn hóa dân gian, bởi lẽ trong đó trình bày tất cả các mặt về địa lý hành chính, dân cư, lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa... trong đó yếu tố văn hóa dân gian được chú trọng. Cuốn sách đã khái quát về văn hóa dân gian vật thể, phong tục tập quán, tín ngưỡng dân gian, tri thức dân gian trong đời sống vật chất của người dân ở Nhơn Thành. Phần phụ lục với nhiều tư liệu văn hóa dân gian phong phú, có hình ảnh minh họa sinh động.
Mặt khác, Mai Thìn còn là hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam nên anh tỏ ra am hiểu về vùng đất mình sinh sống, biết rõ sự tích của làng. Chính vì vậy những đoạn viết về lai lịch cũng như quy trình làm bánh ít lá gai, nghề làm nón Gò Găng hay những điệu bài chòi, những điệu hò giã gạo... rất say sưa, làm mê đắm lòng người.
Sống trên một dải đất đầy nắng và gió, môi trường văn hóa dân gian nơi đây mang đậm tính chất của miền Nam Trung Bộ. Kiểu trang phục "… Bận áo màu đinh / Quần thao cánh kiến / Tay đeo bông giếng/ Lại có xuyến vàng/ Bịt khăn màu ngại…" hoặc "Cổ đeo kiềng vàng, đầu đội nón Gò Găng" đã hằn thành nếp trong nhận thức ăn mặc đặc trưng của người phụ nữ nơi đây. Những nghề thủ công truyền thống như nghề làm bánh tráng, nghề làm bánh ít lá gai, nghề làm cốm, nghề làm nón (nón Gò Găng nổi tiếng), thơ ca dân gian... và nét đặc trưng hơn cả là nghệ thuật diễn xướng dân gian với những bài hò đối đáp, hò giã gạo, hát bội, hát bài chòi... tất cả đã tạo nên nét sinh hoạt văn hóa dân gian đặc sắc của người dân Nhơn Thành nói riêng và của người dân miền Trung nói chung.
Cuốn sách cũng có một số khiếm khuyết nhỏ về bố cục. Phần Di tích văn hóa lịch sử (tr. 18) nên xếp vào chương III: Một số di tích văn hóa lịch sử. Chương II: Nhơn Thành trong tiến trình phát triển, khá dài và không cần thiết đối với một công trình nghiên cứu văn hóa dân gian. Phần Nếp sống văn hóa - phong tục tập quán (tr. 25) nên xếp vào chương IV: Một số tín ngưỡng, phong tục tập quán và nhà cửa, phong thổ. Phần Truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng có lẽ nên đưa vào một bài viết khác. Phần phụ lục có một số sáng tác thành văn ca ngợi mảnh đất Nhơn Thành không phù hợp với tiêu chí của cuốn sách mà lẽ ra phần này chỉ nên giới thiệu những tư liệu văn hóa dân gian sưu tầm được trên địa bàn khảo sát.
Văn hóa dân gian là sự tích lũy lắng đọng qua nhiều thế hệ. Công trình khảo cứu Văn hóa dân gian xã Nhơn Thành dù chưa thể thấu đáo nhưng cũng là một tiếng lòng tri âm tri kỉ của tác giả cho quê hương mình, cho mảnh đất mình đã từng gắn bó, góp phần gìn giữ bảo lưu truyền thống văn hóa dân tộc. Đây là một công việc hết sức thiết thực, đúng hướng, bởi chỉ có trên cơ sở đó chúng ta mới có chất liệu để tạo dựng địa chí của từng tỉnh, từng vùng trên đất nước.
. Lê Việt Liên
(Viện Nghiên cứu văn hóa)
|