Kỷ niệm ngày sinh nhà thơ Hàn Mặc Tử (22-9-1912):
Hàn Mặc Tử - con đường tình một chiều
14:39', 22/9/ 2005 (GMT+7)

         Chân dung Hàn Mặc Tử

16 tuổi Nguyễn Trọng Trí đã làm thơ với các bút danh chớm mùi lận đận: Phong Trần, Lệ Thanh... đến 24 tuổi mới ký Hàn Mạc Tử.

"Hàn Mạc Tử" là "chàng bức rèm lạnh" hay "chàng đơn lạnh". Tên ấy ứng với dự cảm về bốn năm cuối trên đỉnh thơ cô đơn lẻ lạnh của riêng ông.

Để cho... đỡ "lạnh" - giai thoại kể lại - một người bạn đã đặt vầng trăng lên để "Mạc" biến thành "Mặc". Từ đó, trăng vào bút danh Hàn Mặc Tử? Hay trăng vốn dĩ biến tấu, nén nở... mãn tính trong huyết mạch của nhà thơ mắc bệnh phong, dạo đó là thứ bệnh nan y, bất trị?

Khi biết thân thể tàn rã khốc liệt, ông quằn quại viết tập thơ "Đau thương" (còn gọi là tập Thơ Điên), trong đó khát vọng sống có lúc đẩy ông vào những cơn điên loạn. Bất lực trước cảnh đẹp, tình thơ ông đã từng cuồng nộ hét lên:

Trời hỡi làm sao cho hết đói?

Gió trăng có sẵn làm sao ăn!

Nói theo ngôn ngữ hiện đại, xác ấy rữa rã ra thành muôn mảnh phô-tông lấp lánh mây-yêu và hồn-trăng-thơ rồi!

Sống và yêu là khát vọng luôn sáng tỏ như trăng nhưng cũng lại xa mờ như... trăng trong thơ Hàn Mặc Tử. Bài thơ "Đây thôn Vỹ Dạ" trong tập "Đau thương" là giọng tình day dứt trong trái tim thơ:

Sao anh không về chơi thôn Vỹ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

 

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

 

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Bằng cách hỏi "sao anh...", khổ thơ hiện lên bức tranh ký ức tình cảm mượt mà. Còn gì đáng yêu hơn lòng "nắng mới lên" quyện duyên "cau" thắm? Xưa Vỹ Dã vốn là đồng lau hoang dại, sau giọng Huế phát âm trại thành Vỹ Dạ. Thôn ấy bên bờ sông Hương thơ mộng lại càng trữ tình với bao "vườn ngọc". Nhưng "vườn ai mướt quá xanh như ngọc" mới thật sự đáng yêu hơn cả, bởi nơi đó có "lá trúc che ngang mặt chữ điền". Câu thơ xanh chất ẩn dụ thi vị yêu đời của đôi mái đầu kề nhau thì thầm trăm điều ước hẹn. Nhưng bóng câu vút đi và nẻo đời chia lối:

Gió theo lối gió, mây đường mây

Thì liệu tay nào ghì giữ được dòng Hương, hoa bắp:

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Đâu? Thuyền ai một dạo đã đậu bến sông Trăng, bến Hàn Mặc Tử? Hay giờ chỉ còn là thuyền trăng hoài niệm. Vậy mà nhà thơ vẫn đắm đuối hỏi:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

"Trăng Tử" đã vắng "thuyền ai" nên trăng tán sắc, tan rã trong giấc mơ của khổ thơ cuối:

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Than ôi! Người mơ xưa nay hóa thành "khách đường xa", vâng chỉ là "khách đường xa", xa tít tắp vô bờ, không với tới được nữa. Càng xa, "áo em" càng trắng. Trắng quá, xa xôi quá thành... xa lạ chăng?

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

"Ở đây" tức là ở trong hồn thơ vẫn thấp thoáng ẩn hiện sắc sắc không không, mờ mờ sương khói... Lòng ai đi mải miết, "ai biết" lòng kia có còn đậm đà luyến nhớ mối duyên xanh? Giữa hai đại từ "ai" chỉ còn lại nẻo đường tình một chiều, thôi thúc nhà thơ về phương trời xa vô định...

Đường qua thôn Vỹ ra sao nhỉ? Đó là màu sắc mướt xanh khát vọng, chuyển sang nhạt vàng hoài vọng rồi trắng nhòa ảo vọng trong Hàn Mặc Tử? Thôn Vỹ là con đường yêu thương dẫn tới vườn thơ xanh, qua sông trăng vàng nhớ tới loãng tan màu áo sương khói mịt mùng...

Hàn Mặc Tử đã đi trên con đường tình một chiều mà không thể quay lại tìm duyên "cau", "lá trúc" được nữa.

"Ai mua trăng tôi bán trăng cho", Hàn Mặc Tử có thể bán trăng, bán hồn mình chứ "chẳng bán tình duyên" dẫu ai kia xôi xa quên lãng... "Đây thôn Vỹ Dạ" lấp lánh hương màu ẩn dụ: có nắng lên, có trăng đợi, có sương khói... đã ám ảnh vào tâm trí của chàng thơ tài hoa bạc mệnh.

Dù sớm vội đi nhưng Hàn Mặc Tử cứ mãi yêu người, yêu đời với cả tấm lòng đắm say khát sống.

. Theo Anh Hồ (Người viễn xứ)

 

Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí sinh ngày 22-9-1912 tại Lệ Mỹ, Đồng Hới. Thuở nhỏ ông học trung học ở Huế (1928-1930), làm viên chức sở đạc điền ở Quy Nhơn (1932-1933), vào Sài Gòn làm báo rồi lại trở về Quy Nhơn (1934-1935). Ông mắc bệnh phong từ năm 1937, phải vào nhà thương Quy Hòa tháng 9-1940, rồi mất ở đó vào ngày 11-11-1940.

Hàn Mặc Tử bắt đầu làm thơ rất sớm với thể thơ Đường luật và các bút danh Minh Duệ Thị, Phong Trần; nổi tiếng vì được cụ Phan Bội Châu họa thơ và đề cao. Từ năm 1935 ông đổi bút hiệu thành Lệ Thanh, rồi Hàn Mạc Tử, và cuối cùng Hàn Mặc Tử. Tác phẩm tiêu biểu gồm các tập thơ "Gái quê" (1936, tập thơ duy nhất được xuất bản khi tác giả còn sống), Đau Thương (hay Thơ Điên), Thượng Thanh Khí, Cẩm Châu Duyên, Chơi Giữa Mùa Trăng...

Hàn Mặc Tử đem đến cho Thơ Mới một phong cách độc đáo và sáng tạo: bên cạnh những tác phẩm bình dị, trong trẻo, chan chứa tình quê là các tác phẩm đầy những cảm hứng lạ lùng, huyền bí, thậm chí đến điên loạn, phản ảnh trực tiếp một tâm hồn yêu thơ, yêu đời chan chứa, nhưng lại quằn quại vì cơn bệnh đau đớn giày vò.

In trang Gửi phản hồi

CÁC TIN KHÁC >>
Hoàn thành phiên bản một quả chuông có từ thời Tây Sơn  (22/09/2005)
Một vài cảm nghĩ nhân đọc "Cảm nhận và bình thơ" (*)  (22/09/2005)
Tổng duyệt vở "Huyền thoại về tiếng hát"  (21/09/2005)
Xét tặng danh hiệu NSND, NSƯT: Vẫn khó cho nghệ sĩ không chuyên  (20/09/2005)
Tìm hiểu bài thơ Giải đi sớm trong môtíp "bị giải đi"  (20/09/2005)
Đoàn Bình Định giữ vững danh hiệu lá cờ đầu  (20/09/2005)
Tổ chức Hội thi "Tiếng hát đồng quê và thôn nữ giỏi giang, duyên dáng"  (20/09/2005)
Miss Asia 2005: Hồng Hà đứng thứ 2 bầu chọn qua mạng  (19/09/2005)
Tết Trung thu của người tù  (18/09/2005)
Thắp cho những nụ cười tuổi nhỏ  (16/09/2005)
"Ban mai xanh" - Một hiện thực sống gần gũi  (16/09/2005)
Nhạc sĩ Hữu Thuần: Gởi lại "giọt nắng" cho đời  (16/09/2005)
Một tấm lòng thơ với Bình Định  (15/09/2005)
Con đường âm nhạc và "cơn bệnh" của ca sĩ  (15/09/2005)
Cuộc đua chưa về đích  (14/09/2005)