Khổng Vĩnh Nguyên - râu tóc phong trần
9:50', 27/2/ 2006 (GMT+7)

Từ Thăm thẳm bụi đường  đến Trong những mạch ngầm (NXB Văn học - Hà Nội 2005) của Khổng Vĩnh Nguyên cuộc rong chơi mải miết của những tứ thơ Khổng Vĩnh Nguyên chưa biết bao giờ dừng lại.

Khổng Vĩnh Nguyên được mệnh danh đã nhiều, hỗn danh cũng lắm, nhưng dường như  danh nào cũng khập khiễng vì ngự ở đó toàn là những cây đa cây đề: thi sĩ chân quê đã có Nguyễn Bính, thi sĩ lãng tử thì cả một trời cổ kim, thi sĩ bụi thì có Bùi Chí Vinh, thi sĩ tàng có Bùi Bàng Giúi tiên sanh. Rốt cuộc, Khổng thi sĩ không theo làm đệ tử chân truyền một trường phái nào. Giọng thơ của anh thật thà kiểu nông dân (có lúc nhà thơ Thanh Thảo đã gọi anh là thi sĩ nông dân đấy thôi), câu chữ trong thơ anh tự nhiên như thể người nông dân sạ hạt giống, cứ buột miệng là thành thơ. Tất cả những gì tuôn trào ra trong mạch ngầm tâm hồn anh đều  dễ dàng, mộc và hiền.

Đọc Trong những mạch ngầm, theo suy nghĩ của tôi cần phải gạt qua một bên cái gọi là chủ nghĩa đề tài, cũng như dằn lại tư duy lý luận kinh điển để trước hết nhập vào mạch ngầm của tứ thơ. Anh hoa phát tiết trong thơ Khổng Vĩnh Nguyên thì nhiều, nhưng hay bị xé lẻ trong những khoảnh khắc vụt hiện. Đặc biệt ở thơ lục bát, bên cạnh những câu dễ dãi thì có những câu khiến nhiều người mơ ước, ở đó hội tụ được cái say cái nồng  rất lục bát và rất Khổng Vĩnh Nguyên: Giữa dòng bèo bọt lang thang/ Lục bình ngoi ngóp tràng giang ngầu ngầu… (Nghe hạt phù sa) hoặc No chiều rồi đói trưa mơi/ Túp lều xiêu vẹo quê người ngẩn ngơ/ (Quê gười).

Người làm thơ hay vận vào mình những cảnh đời gần gũi với tâm tính khí chất khiến câu thơ dễ hờn dễ tủi. Trông người mà ngẫm đến ta là cảm hứng thường trực trong nhiều bài của Khổng Vĩnh Nguyên. Lên rẫy hay về với nậu nguồn thì anh vẫn bị giày vò trong tâm trạng buồn của một kẻ lãng du đã lâu chưa về cố quận. Cái đẹp xao xác trong thơ anh là bóng hình mẹ già, quê hương, còn cái đẹp cụ thể hiện thực thì hiện mờ mờ như ảo ảnh lễnh loãng đôi khi hình thành ở anh những ngộ nhận những phóng cuồng trong câu chữ. Khổng Vĩnh Nguyên hiền lành ngay cả ở những bài cao giọng ngẫu hứng, những triết lý thế thái nhân tình tưởng chừng bặm trợn. Anh đã phải trả giá bằng những mất mát riêng tư để cái mất ấy lại làm nên cái được của thơ anh. Nên có lúc nói kiểu bất cần mà sâu thẳm bên trong là một nỗi buồn khó tan. Khổng Vĩnh Nguyên là con người của trực cảm nên những khái quát của anh trong thơ đôi khi hồn nhiên ngộ tính như trẻ thơ: Chắc bà thương thằng cháu quê mùa/ Đang phấn đấu hết lòng bảo vệ trẻ con và bà goá…(Bà Rịa ơi, Bà còn nhớ cháu không).

Giọng điệu chủ đạo của tập thơ này phần nhiều gắn với tâm thế của một kẻ phiêu bạt luôn nhớ về cố xứ, nhưng trở về thì lại nhớ nhung cuộc sống thăm-thẳm-bụi-đường, muốn làm một Rô-Bin-Sơn giữa làng quê buồn. Đôi khi nó trở thành giọng khinh bạc phẫn uất hoặc bất cần. Tôi không thích cái giọng đó của Khổng Vĩnh Nguyên, thậm chí còn khó chịu với những ý nghĩ phụ bạc với đời của anh, nhất là những câu phụ phàng với chính mảnh đất sinh ra mình, kiểu: Tìm chút vui hờ trong nhữngngười say rượu/ Nhìn cuộc đời như có như không (Những chuyến về quê) hay Kiếp người vẫn kiếp trầm luân/Quê hương nhiếp dẫn gian truân sai miền (Xin chào điện cúp), Ở quê lâu cũng buồn/ Muốn bỏ nhà đi miết (Sống tạm). Đó không phải là vô-vi, “huyền-đồng của Đạo đức kinh” gì cả mà là mặc cảm bản thân không được kiềm chế. Một gã giang hồ tiền bối là thi nhân Nguyễn Bính khi nhớ quê nhà thì xa xót ray rứt với những vần thơ ứa máu trái tim người đọc: Thầy mẹ ơi, thầy mẹ ơi/Tiếc công cha mẹ đẻ người con hư… hay bên trời Tây một lãng tử thi nhân là X. E-xê-nin cũng khiến ta thổn thức: Con có đâu nát rượu sa đà/ Đến nỗi chết mà không nhìn thấy mẹ… (Thư gửi mẹ). May thay những suy nghĩ  của Khổng ly khách, giang hồ trên quê hương lập dị kiểu đất đai không một chỗ nằm riêng ta vẫn chưa làm cạn kiệt hẳn cái mạch ngầm quê kiểng trong anh, nên người đọc vẫn có thể tìm chút nguồn đồng cảm: Tôi cày trên cánh đồng thơ/Vãi gieo hạt giống đợi chờ mùa sau (Trên cánh đồng thơ), Nghĩ đời vung vãi rạ rơm/Mười năm gió bụi còn thơm quê nhà (Mười năm gió bụi). Anh nhiều phen sống với nỗi nhớ đứt ruột, để trở về với chính mình: nhớ đồng, nhớ mẹ, nhớ con, nhớ cả những vẻ đẹp những tình xưa đã xa quá tầm tay với (Nửa đêm thức giấc nhớ đồng, Bên cầu tiếc thương, Nhớ con, Xưa cô láng giềng, Nhớ mẹ chiều tóc bạc). Tuy nhiên nỗi nhớ ấy vẫn chưa giục giã được bước chân anh trở về vui bữa cơm dưa, gặp lại những bóng hình thân quen cũ.

Có lẽ cuộc sống của một thi sĩ nghèo đi nhiều thấy nhiều khiến anh nhạy cảm với những mảnh đời hẩm hiu, cuộc sống đầu tắt mặt tối. Tâm cảm ấy làm nên những bài thơ xúc động như Quê người, Đồng chiêm ngập lụt, Khóc theo cháu bé… Khổng Vĩnh Nguyên còn có những câu thơ giàu ân tình với bè bạn, bạn thơ, bạn rượu, bạn giang hồ, bạn tâm giao: Tôi người cô lậu buồn teo/ Nhớ chiều anh vượt bãi đèo thăm tôi/ Ngồi nghe bọt bể tan rồi/ Câu thơ còn đọng núi đồi anh đi… (Ngồi nghe bọt bể), Trèo lên thăm rẫy thăm nương/ Trèo lên thăm bạn nhớ thương quá chừng (Trèo lên).

Mạch nguồn thơ của Khổng Vĩnh Nguyên là ca dao dân dã, cộng với cuộc đời long đong râu tóc phong trần thành những vần thơ ngọt ngào cơm thơm quyện lẫn chút lằn nhằn sỏi sạn. Anh yêu thơ như một xác tín để sống với đời, tự nguyện “mang lấy nghiệp vào thân”.

  • Trần Hà Nam
In trang Gửi phản hồi

CÁC TIN KHÁC >>
Cho đời sau con cháu có quê hương  (24/02/2006)
Nên đưa Bích Khê vào "trường thơ Bình Định"  (24/02/2006)
Ký ức Bình An  (24/02/2006)
Chào ngày mới  (23/02/2006)
Gần 15.000 lượt du khách đến với Lễ hội chùa Linh Phong  (23/02/2006)
Lắng nghe Trong tĩnh lặng (*)  (22/02/2006)
Bích Khê: Trong bóng nguyệt soi  (21/02/2006)
Các cây bút nữ đang sung sức  (21/02/2006)
Gốm trang trí trở lại  (21/02/2006)
Tuồng - Một nghệ thuật truyền thống rất hiện đại  (20/02/2006)
Ba khúc ca ngắn về Bích Khê  (19/02/2006)
Tại sao có ngày Valentine ?  (17/02/2006)
Nét Chăm ở thế kỷ XXI  (17/02/2006)
Ấm lòng tiếng hát ru Bình Định  (17/02/2006)
Bình Định đã có một bảo tàng đẹp  (17/02/2006)