Trên thi đàn, cái tên Inrasara (hay Sara như anh thường tự gọi) đã trở nên quá quen thuộc, đặc biệt là sau sự kiện hồi cuối năm 2005 vừa qua, anh đã bay sang Thái Lan nhận giải thưởng văn học khu vực Đông Nam Á với tập thơ "Lễ tẩy trần tháng Tư". Anh - nhà thơ người dân tộc thiểu số đầu tiên của Việt Nam được trao giải thưởng này.
|
Nhà thơ - nhà nghiên cứu văn hóa Inrasara.
|
Lễ tẩy trần tháng tư được in bằng hai thứ tiếng Việt và Anh. Cuốn sách khá trang nhã. Tôi lần giở: "Tôi,/đứa con của ngọn gió lang thang cánh đồng miền Trung nhỏ hẹp/đứa con của nắng lửa bốn mùa cát trắng hanh hao/đứa con của biển khơi trùng trùng bão thét/và của đôi mắt tháp Chàm mất ngủ xanh xao" (Đứa con của đất). "Đứa con của đấy" ấy đã được sinh ra 48 năm trước ở miền nắng gió Phan Rang thuộc tỉnh Ninh Thuận (làng Chăm Chakleng - Mỹ Nghiệp, thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước).
Anh kể: "Bố tôi là một người yêu văn chương Chăm cổ. Nhờ thế, khi còn rất nhỏ, tôi đã thuộc nằm lòng hàng trăm câu ariya nhờ những đêm trăng bố tôi thường ngồi trước nhà ngâm ngợi. Rồi bắt đầu tập ngâm ngợi Pauh Catwai, Glang Anak… - những bài thơ cổ, những điệu hát cổ của người Chăm…". Cái chữ người Chăm, văn hóa Chăm, văn chương Chăm, ngôn ngữ Chăm quyện trong Inrasara từ lúc còn trong bụng mẹ. Và anh yêu.
"Câu thơ đầu đời tôi kẽ bằng que diêm lên vòm cát/cây xương rồng nói với tôi nỗi vô thường của dấu chân qua/nói với tôi về ký ức xanh đứa con đánh mất nơi phương xa/về vết cắt sâu đang làm mưng mủ/nói với tôi về một thời không quên dù không gợi nhớ" (Sinh nhật cây xương rồng). Và cứ thế, thơ anh cất lên những ngọn nguồn Chăm. Chỉ riêng những cung bậc "tháp" trong thơ của Inrasara cũng đã nói lên rất nhiều điều: "Biết mấy trăm năm rồi tháp đứng/Biển bên kia và cát bên này/Biển mấy vạn đời rồi tháp nắng/Trên đồi hoang/như dấu lặng/phơi bày" (Tháp nắng); "Tháp hoang/như thình lình mọc lên từ đất/lông lá - âm u - dọa nạt/…/Tháp hoang/người bỏ rơi - lịch sử bỏ quên/bước chân thời gian thì nhớ…" (Tháp hoang)…
Trong những bài thơ khác, giai điệu "tháp" của Inrasara cũng rất lạ lẫm và đẹp u huyền: "Tôi đốt lên hàng đống chữ/dưới tàn tro/bươi lấy vài lời…/Ơi tháp!/hai mươi năm tha hương/bề sau trang thơ tôi vẫn còn lãng đãng/số phận người…" (Những ý tưởng không mùa). Hoặc như: "Những kẻ vắt kiệt mình cho vang vang đời tháp/ra đi mang theo niềm bí mật buồn…/Những kẻ không lời ra đi còn ngoái lại trông/gió thổi vào khoảng không họ bỏ lại…/Gió cứ thổi vào khoảng vô danh u tối/thổi vào miền lặng im ám cái nhìn ngoái lại/chưa một lần chớp tự nghìn năm qua…" (Cái nhìn ngoái lại)…
Và đến trường ca Lễ tẩy trần tháng tư, Inrasara như mọc lên từ đất của "Xứ sở" để ngợi ca Xứ sở bằng đôi cánh của chữ nghĩa: "…bên kia, về phía bên kia nơi bờ sông quê hương/tháng Tư đang lễ tẩy trần/làm sao em song hành cùng tôi về đứng bờ sông đêm nay?/trong đau hoan lạc/hát vang bài tụng ca của nước/chảy đi/chảy đi/chảy trôi đi/chảy trôi tất cả đi…". Cũng ở trong trường ca này, Inrasara như đang đếm lòng mình: "…Bởi không thể sống mà không tạ ơn/tạ ơn trang giấy trắng, tạ ơn dòng thơ cuối cùng chưa viết/Glang Anak trăm câu - luận hai trăm năm chưa hết.
|
Tập thơ Lễ tẩy trần tháng Tư. |
Tôi nhận ra rằng "đứa con của đất" bên dòng sông Lu - Inrasara - dẫu có vài chục năm rồi bỏ ngôi làng của mình vì cuộc mưu sinh thì vẫn luôn chôn chặt đời mình bên bến nước xưa: "Nắng đã khởi động trên đồi tháng Tư/khởi động sớm hơn nhiều thế kỷ trước/khi biển còn chưa thức giấc/sớm hơn cả ký ức thầy chủ lễ già/…/dựng lên kajang cuộc lễ/nắng vồ chụp cả khăn mưtham bà vũ nữ/bay qua 365 ngày tẩm nhiễm nỗi trần gian. 365 ngày tẩm nhiễm nỗi trần gian" để được nhìn "Nắng đã khởi động trên đồi tháng Tư" và để được tinh tươm "cháy lên giữa trưa ngày/trước cửa kajang kia - lửa đã đỏ". Vì như anh đã viết: "Con là Chăm ngay ban đầu vỡ tiếng khóc/(Và còn hơn thế: Chín tháng mười ngày trước khi vỡ tiếng khóc)/Khi con cắm rễ nơi đây/Hay khi con lang bạt đến tận cùng trời/Con cứ là Chăm, cả lúc con cháy lên cùng ngọn lửa cuối đời" (Ngụ ngôn mới).
Inrasara làm thơ từ năm 15 tuổi (nhưng không gửi đăng ở bất kỳ tờ báo nào), mãi đến 30 năm sau mới cho ra mắt tập thơ đầu tay: Tháp nắng. Và ngay lập tức, tác phẩm Tháp nắng của Inrasara được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thưởng (1997).
Rồi sau đó, liên tiếp những tập thơ của anh ra đời: Sinh nhật cây xương rồng (1997), Hành hương em (1999) .. đến Thơ Inrasara (2003). Ở lĩnh vực nghiên cứu văn hóa Chăm, chỉ từ 1995 đến 2003, Inrasara đã có 3 công trình tầm cỡ: Văn học Chăm - khái luận, văn tuyển (3 tập, 1995), Văn hóa - xã hội Chăm, nghiên cứu và đối thoại (2003), và Tự học tiếng Chăm (2003). Đó là chưa kể các công trình đã ra đời trong thời gian gần đây hoặc sắp ra đời (đã cơ bản hoàn thành bản thảo) như Tagalau (chủ biên, sáng tác - lý luận - phê bình; đã ra được số thứ 6 - trung bình mỗi năm 1 số), Văn học Chăm (10 tập, khoảng 6.000 trang, sắp xuất bản)…
Ấy thế mà khi nói về con đường học hành của mình, Inrasara chỉ khái quát cho tôi chỉ vài dòng ngắn gọn: "Văn hóa 12/12. Năm 1977, sinh viên Đại học sự phạm TP HCM, nghỉ giữa chừng. Từ 1982 - 1986 làm việc tại Ban Biên soạn sách chữ Chăm tỉnh Ninh Thuận. Từ 1992 - 1998 làm công tác nghiên cứu tại Trường Đại học KHXH&NV Thành phố Hồ Chí Minh.
Mấy câu "lẩy" trong một bài thơ để mở đầu cho cả tập thơ của Inrasara thay cho lời bạt giống như một tuyên ngôn: "…Buổi sáng - rất sảng khoái, tôi ra sông Lu/gánh theo đầu kia 41 inư Cham KCT, /đầu này nhúm chữ cái Latinh ABC/ nhận đầu chúng xuống nước bắt tắm gội từng đứa một/và tôi vui vẻ tắm với chúng".
Và như thế, Inrasara"đi" để mà "trở về". Đúng như anh tự hứa và thực hiện: "Ra đi từ sầu của mây, từ lạc của lòng/từ bạc của lời, từ im tiếng khóc/từ lặng câm của đêm đồi trọc/Ra đi từ nỗi khát khao của đống rơm hoang/từ nỗi trâu già nhớ đất xâm canh/Giấu chút nắng quê hương vào túi/làm hành trang mai mốt tìm về…".
|