Lưu Hữu Phước và hai tác phẩm viết về Bác
10:11', 10/5/ 2006 (GMT+7)

Trong số các nhạc sĩ Việt Nam, có thể nói, Lưu Hữu Phước là người trung thành bậc nhất với việc sáng tác về những bản hành khúc chính luận. Sinh thời, khi Bác Hồ còn sống và khi Bác mất, đã có nhiều bài ca viết về Bác. Nhưng với riêng Lưu Hữu Phước (1921-1989), hai bài hát viết về Bác: Ca ngợi Hồ Chủ Tịch Tình Bác sáng mãi đời ta là hai bài hát mang nhiều kỉ niệm.

Khi Nam Bộ kháng chiến, ông viết hành khúc Đoàn quân ca, ca ngợi những du kích Nam Bộ dũng cảm. Nếu số phận gắn Lưu Hữu Phước với cuộc kháng chiến Nam Bộ thì chắc chắn những giai điệu ông viết về Bác khác với những gì chúng ta đã biết. Nhưng tháng 5-1946, ông được điều ra công tác ở Hà Nội. Ở Hà Nội, trong kì họp thứ II của Quốc hội khoá I tháng 10-1946, lần đầu tiên ông đã xúc động khi gặp Bác Hồ. Ông kể với bạn bè: “Khi Bác Hồ ôm anh Tạo, tôi tưởng chừng như Bác đang ôm tôi, ôm cả ba má chú bác, bà con xa gần của tôi và toàn dân Nam Bộ. Nước mắt của Bác rơi trên vai anh Tạo, tôi cảm thấy nóng hổi như rơi trên vai tôi. Bỗng tôi chợt nhớ ra là chính nước mắt tôi đang chảy ròng ròng trên vai tôi.”

Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ở chiến khu Việt Bắc, ông được gặp Bác nhiều lần, và càng thấy rằng, Bác là người Cha, là linh hồn của cuộc kháng chiến, là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.

Tài năng của ông có điều kiện phát triển qua thực tế đấu tranh cách mạng. Được may mắn gần gũi Bác Hồ những ngày ở chiến khu, Lưu Hữu Phước đã dồn tình cảm thành kính và một niềm tin mãnh liệt vào Bác, người Cha muôn vàn kính yêu của dân tộc qua bài Lãnh tụ ca. Có thể nói chủ đề ngợi ca lãnh tụ được Lưu Hữu Phước thể hiện rất sâu đậm và thành công. Ngợi ca Bác là ngợi ca dân tộc. Hình ảnh Bác hiện trên nền cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay, chỉ lối và dẫn dắt dân tộc ta đi tới bến bờ quang vinh trong khúc khải hoàn.

Bài hát Ca ngợi Hồ Chủ Tịch ra đời vào năm 1947. Ngay khi ra đời, bài hát dược gọi là Lãnh tụ ca. Âm điệu ngợi ca chậm rãi, trang nghiêm, thành kính mà Lưu Hữu Phước soạn cùng Nguyễn Đình Thi đã khiến cho bài ca làm xúc động cả dân tộc: Sao vàng phấp phới ánh hồng sáng tươi/ Toàn Việt Nam đón chào ngày mới/ Hồ Chí Minh dắt toàn dân nước ta

Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước sinh ngày 12 tháng 2 năm 1921, tại Cần Thơ, Hậu Giang và mất năm 1989. Trước năm 1945, ông học ở Sài Gòn, với các bạn bè thân thiết phải kể đến Huỳnh Văn Tiếng, Mai Văn Bộ... là đầu mối hội tụ những học sinh, sinh viên yêu nước.

Nhạc sĩ nguyên là giáo sư, viện trưởng Viện âm nhạc, Chủ tịch Hội đồng âm nhạc quốc gia... Ông là một trong những nhạc sĩ đầu đàn của giới nhạc sĩ Việt Nam, đại diện cho phái âm nhạc Nam Bộ trong thời điểm khởi đầu của nền tân nhạc. Sở trường của ông là về hành khúc, Bạch Đằng Giang là ca khúc nổi tiếng (1940) và tiếp theo là một loạt các hành khúc.Là linh hồn của Tổng hội sinh viên trong phong trào ca hát “Thanh niên và lịch sử”, Lưu Hữu Phước viết nhiều ca khúc trước đó như: Bạch Đằng giang, Hội nghị Diên Hồng, Lên đàng. Những bài ca này đã được hát vang trong ngày Sài Gòn khởi nghĩa 23- 8- 1945.

Trong hai cuộc cách mạng chống Pháp và chống Mỹ: Lên đàng, Tiếng gọi thanh niên, Tuổi hai mươi, Giải phóng miền Nam, Tiến về Sài Gòn, Lãnh tụ ca, Tình Bác sáng đời ta... đã trở thành những hành khúc và những chính ca suốt một thời của các thế hệ thanh niên Việt Nam.

Bây giờ, ngay cả khi giai điệu nầy chỉ được ngân lên hằng ngày như tiếng chuông trên nóc nhà Bưu điện Hà Nội trước khi điểm giờ, lòng ta không khỏi bồi hồi thương nhớ về Bác .

Kháng chiến thành công, những ngày đầu hoà bình ở Hà Nội, Lưu Hữu Phước vẫn tiếp tục những giai điệu chính luận. Ngay khi chính quyền Sài Gòn lấy bài hát Tiếng gọi thanh niên của ông làm quốc ca thì với biệt danh Huỳnh Minh Siêng, ông đã viết bài Giải phóng miền Nam - bài ca chính thức của Mặt trận giải phóng dân tộc miền Nam.  Vận nước đã đến rồi,bình minh chiếu khắp nơi/ Dựng xây non nước sáng tươi muôn đời…Hiện tượng một người sáng tác được hai quốc ca như Lưu Hữu Phước đến nay vẫn là duy nhất trên thế giới.

Năm 1965, sau khi viết những bài hát thúc giục thanh niên như Sẵn sàng chiến đấu, Bài ca thanh niên lên đường, Lưu Hữu Phước về Nam. Ông tiếp tục viết Bài ca giải phóng quân, Tiến về Sài Gòn.

Bốn năm sau, khi nghe tin Bác mất, ông đã đưa ra bài hát Tình Bác sáng đời ta tha thiết và trữ tình đau đáu. Có thể nào không rưng rưng khi nghe ca sĩ Quốc Hương thổn thức cất lên: Từ trong chiến hào hôm nào nghe tiếng Bác/ Hồn ta sáng rực như nở hoa…

Nếu lần trước, Lưu Hữu Phước soạn lời chung với Nguyễn Đình Thi, thì lần nầy cũng được soạn với Diệp Minh Tuyền-đều là nhà thơ,nhạc sĩ. Đó cũng là duyên nợ, là tình cảm riêng biệt của Lưu Hữu Phước dành cho Bác Hồ kính yêu.

  • Khả Xuân
In trang Gửi phản hồi

CÁC TIN KHÁC >>
Kỳ cuối: Trịnh Công Sơn viết về Quy Nhơn   (09/05/2006)
“Sông Trà vẫn mãi chảy trong tôi”   (09/05/2006)
Vài ý kiến nhỏ về một giải thưởng lớn   (09/05/2006)
Câu chuyện 3 người   (07/05/2006)
Khuyên tai ba mấu bằng gốm: hiện vật quý về văn hóa Sa Huỳnh   (05/05/2006)
Kỳ V: Quy Nhơn - ngày trở lại  (02/05/2006)
Festival Đống Đa - Tây Sơn 2007: Sẽ đậm chất Bình Định   (26/04/2006)
Bảo tàng Tổng hợp tỉnh: Đào khảo sát dấu tích Cảng thị Nước Mặn  (25/04/2006)
Kỳ IV: Thời kỳ Biển nhớ và những bóng hồng  (28/04/2006)
Nghe Hữu Thỉnh thương lượng với thơ  (24/04/2006)
Bút danh "thật" hơn tên thật  (24/04/2006)
Triển khai xây thêm một số hạng mục tại Bảo tàng Quang Trung   (21/04/2006)
Có một “Thiếu lâm tự” của Bình Định xưa   (21/04/2006)
Bình Định - một vùng núi sông lung linh huyền thoại   (21/04/2006)
Ca sĩ hát quán café: Hạnh phúc khi được đồng cảm  (20/04/2006)