Đầu những năm 90 của thế kỷ trước, trên thi đàn Bình Định, xuất hiện một loạt cây bút trẻ tài hoa đầy cá tính, báo hiệu một mùa gặt mới của thi ca. Trong số đó có Quang Vĩnh Khương, người ở xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước.
Quang Vĩnh Khương đến với thi ca mạnh mẽ, táo bạo như ngọn sóng ngang tàn, như luồng gió trái mùa, độc đáo, như một tia sáng lướt qua bầu trời rực rỡ, chói lòa và vụt tắt đằng chân trời xa thẳm, vĩnh viễn đi vào cõi hư vô giữa Tết đoan ngọ 2001. Năm anh tròn 36 tuổi, cái tuổi của càn khôn vô định.
Sau tết Tân tị 2001, tôi bất ngờ gặp Quang Vĩnh Khương trên đường 19, tại thị xã An Khê giữa buổi trưa tháng tư nắng nóng. Khương khoe với tôi xây nhà gần xong và vợ Khương vừa mới sinh cháu gái. Tôi nói người lái xe quay đầu lại, theo sau chiếc xe Honda của Khương. Vợ Khương nhỏ nhắn giáo viên văn trường THPT An Khê. Đứa con gái chưa đầy hai tháng tuổi đang nằm nôi. Tôi mừng cho Khương sau mười năm bương chải, cuối cùng rồi cũng có cái tổ ấm gia đình. Thế là đã có một túp lều để trú, đã có một bếp lửa để sưởi, không còn là "chiếc xe ngựa cà tàng ngày nào cực nhọc lao trong đêm chở gió và cỏ và cỗ quan tài chưa bỏ xác".
Chưa đầy một tháng sau, từ thành phố Quy Nhơn, tôi được tin Quang Vĩnh Khương đã đột ngột ra đi trong giấc ngủ trưa ngày 5-5 âm lịch năm Tân Tị, 2001. Thế là "cỗ quan tài đã có xác". Tôi bàng hoàng tiếc thương cho người trai Tuy Phước, một ngòi bút thơ tài hoa, đa tình và mạnh mẽ. Đây là định mệnh ư? Tôi thường bắt gặp chữ định mệnh trong nhiều bài thơ của anh. Trong bài "Đối khúc mùa thu", ngay trong trang đầu cũng có hai chữ định mệnh, (ngôi sao định mệnh, định mệnh đời tôi). Nó vang lên như một điệp khúc. Khương đã đến và đi như chiếc xe ngựa cà tàng kia lao vào đêm vun vút, không phanh. Tim tôi đau nhói.
Trong tay tôi chỉ có tập thơ "Tạ ơn nỗi buồn" nxb Trẻ ấn hành 1991 và "Hai mảnh yêu thương" in chung với Mai Thìn. Từng đó cũng đủ cho tôi kính trọng và yêu thương Quang Vĩnh Khương. Tuổi còn ít, song Khương sớm bương chải, lãng du khắp hai miền đất nước, làm đủ thứ nghề để kiếm sống, rồi viết kịch, làm thơ, viết truyện phim, quay phim, làm báo. Cuộc đời ghồ ghề và bụi bặm, trí tuệ và hào hoa, đam mê tình yêu và nghệ thuật... Tất cả đã làm cho Quang Vĩnh Khương già trước tuổi. Chàng đẹp trai hào hoa và phong nhã trong bộ complê màu trắng như một MC thực thụ trước đám đông yêu nghệ thuật. Có thể nói thơ Khương không có bài dở. Nó thể hiện một tâm hồn giàu có, một sức sống dồi dào, một bút lực mạnh mẽ, yêu hết mình, làm việc hết mình và cũng sống hết mình. Nói thế, không có nghĩa Khương không có khuyết nhược điểm. Những điều Khương vấp phải, đó là nỗi đau của một thời bao cấp nghèo khổ và túng thiếu. Hãy nhìn Khương như một thi sĩ trẻ tài hoa đã mang lại cho thi ca sức sống mới ào ạt và sung mãn, bản lĩnh và khoan dung, cuồng say và đau khổ. Khương đã làm mới những đề tài quen thuộc, làm mới thể thơ lục bát…bởi sự hàm súc trong từ lượng, bởi lôgíc nội tại và tiết tấu của tứ thơ, trước hết là ngôn từ. Những bài thơ văn xuôi của Khương cũng tinh tế, sâu sắc chân thật trong tình cảm, chân thật trong chiếu chăn. Nó làm cho người đọc ngạc nhiên, buộc phải suy ngẫm, đánh giá những hiện tượng quanh ta được nhà thơ khái quát và phản ảnh. Không ít nhà thơ lúc đó muốn đánh giá hiện thực nhiều khi phải sử dụng thể phú, thể thơ tự sự (e'pique) còn với Khương, trữ tình (lirique) cũng phản ảnh được hiện thực một cách sinh đông, sâu sắc đến đau đớn, và Khương còn sử dụng thể loại thơ drammatique.
Thôi em! Lãng mạn thời thực dụng
Vầng trăng nào hơn tấm bánh
Dệ cỏ non đo thước tính thành tiền
Người ta dõi nhìn ra biển là mong một chuyến hàng về
Chai lì đam mê
Chết dần kỉ niệm
Những cơ tim mòn rão chuyện biệt ly
Thôi em! Đời mà…
Ta nhập cuộc.
Thơ Quang Vĩnh Khương như cuộc đối thoại trong kịch, như Aria trong ope'ra với những từ ngữ sắc nhọn đầy cảm xúc trong nỗi đau nhân thế.
Có khi nào
Em tìm lại gương mặt mình tuổi hai mươi
Hái huệ trắng đầu thung thơm ngát
Có khi nào
Em tìm lại gương mặt mình nhoà nước mắt
Đêm đầu tiên hóa kiếp đàn bà
Khương đến với thi đàn giữa cơn đại hồng thủy về thơ ào ạt tràn qua đất nước trong những năm giao thời của cơ chế bao cấp và đổi mới. Các nhà nghiên cứu phê bình chân chính bị đẩy dạt lên bờ, mặc cho cuộc đại hồng thuỷ hoành hành. Khen chê không còn tuân thủ theo một tiêu chí mỹ học nào. Những quan hệ thẩm mỹ, cái đẹp của cuộc đời và nghệ thuật bị đánh rơi. Cuộc khủng hoảng đạo đức, thị hiếu thẩm mỹ đã phá tan những giá trị thẩm mỹ được xây dựng bao nhiêu năm có ý thức và công phu. Quang Vĩnh Khương cũng bị nhấn chìm trong cơn đại hồng thủy đó.
Đọc lại Quang Vĩnh Khương, tôi muốn người đọc tiếp xúc những bài thơ của anh để có cơ sở nhìn nhận công bằng một nhà thơ trẻ tài hoa và độc đáo đương thời bị lãng quên trong cuộc mưu sinh.
Đêm xưa có một gã khờ
Uống trăng rồi khóc trang thơ đời mình
Uống trăng rồi khóc cuộc tình
Uống tình rồi khóc một mình dưới trăng.
(Trương Chi)
Bài lục bát chỉ có bốn câu mà nói được cả cuộc đời của một nghệ sĩ tài hoa và đau khổ. Nghệ thuật ở đây là cách làm xiếc ngôn từ, luyến láy như một khúc dân ca, như ngón đàn bầu của một nghệ sĩ dân gian tài hoa điệu nghệ làm người nghe bâng khuâng man mác.
Trong bài " Lục bát gửi người xưa" (Tạ ơn nỗi buồn), những câu thơ ở đây rất gần với ca dao về mặt vần điệu cũng như hình ảnh.
Anh về lối cũ vườn xưa
Tìm em chỉ thấy gió lùa qua song
Nhà xiêu bóng đổ chờ mong
Thềm hoang giếng lạnh buốt lòng lá bay.
Ngọn đèn là ngoại lắt lay
Cơn mưa là mẹ rơi đầy trong anh
Em là hương khói mong manh
Câu thơ buổi ấy giờ thành nỗi đau.
Phần lớn các bài thơ trong "Tạ ơn nỗi buồn" và "Hai mảnh yêu thương", Quang Vĩnh Khương đau khổ, dằn vặt, tự nhận thức về những cuộc tình vừa qua nhiều lúc trần trụi, bụi bặm, song sâu sắc và chân thực. Đó là những mối tình thoảng qua, ngắn ngủi, nhưng rất ấn tượng, đam mê và quyết liệt. Khó có ai nghĩ rằng tác giả của những bài thơ ấy là một chàng thanh niên trong độ tuổi 20. Ấy là những bài thơ tình hay và bậc nhất lúc bấy giờ. Nó độc đáo, nó khác hẳn những bài thơ tình không có tình lúc bấy giờ. Người đọc bắt đầu chú ý và hy vọng sự thăng hoa của tác giả. Trong bài "Quà tặng", Quang Vĩnh Khương tỏ ra rất già dặn khi viết thơ văn xuôi:
Lắng dưới mi mắt em nỗi u hoài thời con gái. Có thật đó là định mệnh hay bất hạnh của đời mình, em gặp tôi? Có thể em sẽ tan ra như tuyết sương, như nước mắt. Cánh hoa hồng này tôi lặng lẽ ép lên tim.
Ôi tháng giêng xanh tóc ngắn! Như một bài thơ hay em bước vào cánh cửa cuộc đời tôi êm đềm và dịu nhẹ. Tôi tập lang thang qua góc phố con đường, qua kỉ niệm theo dấu chân em trên cát và sỏi. Mùa xuân âm vang một nụ hôn thầm.
Rõ ràng tình thơ và ý thơ đều chân thật, gợi cho ta sự đam mê nhưng mỏng manh và dễ vỡ. Tình yêu được phản ảnh trong thơ Khương nhiều góc cạnh, nhiều chiều hướng làm cho hình thức thơ luôn uyển chuyển thay đổi. Hiện thực đối tượng miêu tả không thể gói gọn trong một hình thức cũ. Nó bức phá và tạo ra những yếu tố là mới hình thức cũ, giống như khái niệm triết học, hay thuật ngữ của văn học, nó phải tràn ra, lan tỏa, không còn bó rọ trong ngữ nghĩa, có cơ hội là thoát ra tạo nên những cung bậc trầm lắng của âm thanh.
Mười năm tôi đi
Trong hành trang hỗn loạn
Có gương mặt em mười bảy
Nụ hôn đầu tiên rụt rè
Mười năm em sang sông
Hoa xoan rụng ơ thờ
Mười năm tôi trở lại
Cát vẫn xanh tuổi học trò
Chỉ em riêng bây giờ viền mắt tím
(Mười năm)
Nếu trong "Hai mảnh yêu thương", Quang Vĩnh Khương nói về những cuộc tình của mình, thì trong "Tạ ơn nỗi buồn" (nxb Trẻ- TP. Hồ Chí Minh), Quang Vĩnh Khương cảm xúc với nhiều nỗi khổ đau của người thân, của bạn bè, của một em bé…
Cô mồ côi dạy lớp mồ côi
Mất cha mẹ cô là cha mẹ
Mất hạnh phúc các em là hạnh phúc
Cuộc đời này không ai mồ côi!
(Cuộc đời này)
Hay
1976
Có thằng bé mười một tuổi
Là tôi
Lang thang tìm cha
Hoa cúc dại trong mưa vàng buồn bã
Tôi dìu em tôi qua cơn đói
Pleiku lưng tròng nước mắt
(Ký ức Pleiku)
Thơ Quang Vĩnh Khương còn nói đến những người chị, người em, người đàn bà đau khổ sau chiến tranh.
Chị giấu đi mộng mơ thời thiếu nữ
Làm thân cò lặn lội ven sông
Gòng vai gánh chồng con và cái khổ
… nỗi nhớ quê nhớ chị nao lòng
Trang thơ viết nữa chừng nghẹn lại
Cách chân trời chị có nhớ em không?
(Chị Hai)
Và sâu sắc nhất, tha thiết nhất, cảm động nhất vẫn là những mối tình của tác giả. Có thể nói Quang Vĩnh Khương là một nhà thơ của Tình Yêu. Và những tiêu đề của thơ Khương cũng rất ấn tượng và hiện đại như Tự Khúc, Dạ Khúc, Ca Khúc, Vũ Khúc. Và đến "Đối Khúc mùa thu", người đọc thấy ở Quang Vĩnh Khương, một thi sĩ tài hoa, dày dạn ở cuộc đời mà cũng dày dạn và chính chắn trong thơ. Đến đây tác giả không thể hờ hững với hiện thực, chỉ đắm mình trong tình yêu, mà tứ thơ đã tràn ra ngoài cuộc sống, lấp lánh cuộc sống xô bồ của thời mở cửa. Đối khúc mùa thu là một bài thơ hay làm người đọc ngạc nhiên, lạ lẫm về sự đảo ngược của thuần phong mỹ tục, đạo đức. Sự nhìn nhận khốc liệt đầy hài hước sâu cay và khách quan đến mức làm ta chảy trào nước mắt "Tôi là chiếc xe ngựa cà tàng cực nhọc lao trong đêm chở gió và cỏ và cỗ quan tài chưa bỏ xác". Câu thơ dài 23 chữ song rất hình ảnh. Đọc lên ta thấy xốn xang và cay xè sống mũi.
Hiện thực còn cay đắng hơn, thực dụng hơn, mọi giá trị đạo đức bị đảo lộn. Ở đây thơ Khương hài hước đến ứa nước mắt trước niềm tin bị lung lay. Kẻ cơ hội đục nước béo cò. Còn tác giả vừa giận dỗi, vừa hờn lẩy, nhưng không nỡ bỏ qua. Gắt gỏng và nhẹ nhàng đến móc ruột người ta, nhưng rất nhân đạo và dễ thương biết chừng nào. Trong bài thơ lục bát không đề
Bước đi ngoài gió trong sương
Mơ mơ tỉnh tỉnh suốt đường nhân sinh
Trên vai là cái gánh tình
Trong tim là nỗi một mình bơ vơ
Em đừng vò chín khúc tơ
Mà lan huệ rũ bên bờ thời gian
Em đừng buông thả tiếng đàn
Mà nhàu nét mặt cũ càng gương trong
Em đừng khua sóng trong lòng
Mà tan nát những chờ mong thuở nào
Quang Vĩnh Khương đến với thi ca như một tia chớp và ra đi cũng như một tia chớp. Tôi muốn dùng mấy câu thơ này như một nén hương lòng gửi cho thi sĩ trẻ Quang Vĩnh Khương, gửi cho người em, của bầu rượu và túi thơ, người của xứ Phước Lộc.
Yêu đến khốn nạn đời mình
Mà đâu biết con tàu số phận
Sẽ dừng chân nơi ga xép tan hợp nào.
Tháng 5 – 2008
|