Vào những năm 1920, trên vùng An Thái (nay thuộc xã Nhơn Phúc, huyện An Nhơn-Bình Định) xuất hiện môn phái võ mới mà sau này được lấy tên là Bình Thái Đạo. Sự có mặt của Bình Thái Đạo đã tạo ra sự hòa nhập, giao thoa của môn võ Thiếu Lâm Tự (Trung Hoa) với võ cổ truyền Bình Định tạo nên nét độc đáo của nền võ thuật trên vùng Đất võ.
Theo tài liệu trên trang Web của Bình Thái Đạo, Chưởng môn nhân đời thứ ba của môn phái này bà Diệp Lệ Bích giải thích: Bình Thái Đạo là môn phái võ do ông nội của bà là Diệp Trường Phát (tức Tàu Sáu) sáng lập.
|
Chưởng Môn nhân đời thứ hai Diệp Bảo Sanh biểu diễn quyền. Ảnh tư liệu của Diệp Lệ Bích
|
Tàu Sáu - một bậc chân sư
Tên thật của cụ Tàu Sáu là Diệp Trường Phát, là nhân vật có tầm ảnh hưởng rất lớn trong việc tạo nên oai danh của quyền An Thái. Cuộc đời cụ là cuộc đời của một bậc danh sư mà tài năng võ học và nhân cách đáng để nhiều người ngưỡng vọng...
Diệp Trường Phát sinh năm 1896 tại làng An Thái, là người gốc Hoa. Năm 13 tuổi, ông được cha mẹ cho sang quận Chiếu An, tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) học võ, rồi sang Hồng Kông thụ huấn thêm. Trở về An Thái, ông tiếp tục học hỏi và rút tỉa thêm tinh hoa võ thuật cổ truyền Bình Định. Lúc đầu, ông chỉ dạy người trong gia đình, sau này, do nhiều người nài nỉ, ông mới truyền võ nghệ cho người trong làng. Năm đó (1924), ông đã 28 tuổi. Từ đây, môn phái An Thái, còn gọi là Bình Thái Đạo (tức Bình Định, An Thái) ra đời.
Hệ thống quyền của môn phái này khá chặt chẽ, được xây dựng trên bốn bộ chính là: Hổ quyền-Long quyền-Hầu quyền-Xà quyền. Trong đó, Hổ quyền và Long quyền thuộc ngạnh công, được coi là nền tảng căn bản; Hầu quyền và Xà quyền thuộc Nhu công và Miêu công, là phần xuất sắc, ảo diệu.
Về mặt tinh thần, cụ Tàu Sáu lấy “Ngưu giác chỉ” làm biểu tượng của môn phái. Cụ đã suy tưởng, nghiền ngẫm về bản chất tốt đẹp của loài trâu, rồi đúc kết thành giáo điều của môn phái, gồm có 5 điều gọi là “Ngũ điều”: Phải nhẫn nại, đoàn kết, hy sinh, thật thà, dũng cảm. Bên cạnh “Ngũ qui” cũng có 5 điều: không phản sư phế đạo; không ỷ thế hiếp cô; Không sanh tâm đạo tặc; Không loạn dâm háo sắc; Không thắng vinh bại nhục.
Sự sắp xếp trên, còn hàm chứa một quan niệm rất tinh tế và xuyên suốt của cụ Tàu Sáu về phương diện giáo dục, rèn luyện con người thông qua phương pháp huấn luyện võ thuật. Có thể tóm tắt: Trước hết phải làm sao khơi dậy và tập cho người môn sinh biết nhẫn nại, chịu đựng để họ có thể thích ứng, hòa hợp được với những phức tạp, mâu thuẫn trong cuộc sống. Từ đó, nhu cầu giao lưu, chia sẻ trong họ mới có điều kiện phát triển, họ sẽ tự đoàn kết với mọi người. Và khi đã biết đoàn kết yêu thương nhau rồi, thì họ mới có thể hy sinh cho nhau được. Đấy là lẽ tự nhiên. Mà, một con người có đức hy sinh là đã triệt tiêu được những vụ lợi, đố kỵ nhỏ nhen, nguồn gốc của sự dối trá xảo quyệt. Họ sẽ luôn sống và cư xử một cách thật thà, đúng đắn. Nếu có phải dụng võ, thì cũng chỉ vì lẽ phải, vì chính nghĩa. Đấy là sự dũng cảm của con nhà võ.
Để đạt được những điều đó, cụ Tàu Sáu chủ trương tiến hành một cách lâu dài, bền bỉ, đúng tiến độ, song song với một giáo trình huấn luyện phù hợp, cũng như trong các hình thức sinh hoạt môn phái (một dạng xã hội thu nhỏ), không cần thiết phải dùng lời lẽ. Bởi, ai cũng có thể nghe, hiểu và phân biệt được những đức tính tốt đó, nhưng để có được những đức tính đó là một việc hoàn toàn khác, rất khác.
|
Thế Ngựa Kim Kê. Ảnh TL của DLB
|
Vang danh và những huyền thoại
Vào khoảng năm 1924, khi đã hoàn chỉnh cả về võ thuật và võ đạo, cụ Tàu Sáu mới bắt đầu truyền dạy môn võ này tại quê nhà, và đã đào tạo được nhiều đệ tử nổi danh như Ba Phùng, Chín Kỷ, Phó Tuần Chuẩn, Năm Tường. Năm Tường vốn là hảo thủ Nam Kỳ từng bất phân thắng bại với A-bu-đu (một võ sĩ hạng nặng của Pháp có lối luyện võ rất dã man. Theo tương truyền là mỗi sáng dùng tay không đấm chết hai con bò mộng), nhưng khi Năm Tường ra Bình Định thụ giáo cụ Tàu Sáu một thời gian trở về thì A-bu-đu sợ, không dám nhận lời tái đấu, và đã tự rút lui khỏi các đấu trường Đông Dương. Một võ sĩ tài năng khác là Kim Anh cũng đã từng được cụ Tàu Sáu chỉ giáo mà thành danh trên các võ đài quốc tế, góp phần làm rạng rỡ cho xứ An Thái nói riêng và đất Bình Định nói chung.
Đương thời, danh tài của các võ phái khác như Hồ Ngạnh, Đoàn Phong, Năm Nghĩa, Bang Beo, Khách Nhé... đều có đến đàm đạo, trao đổi và khâm phục cụ. Cũng từ đó bắt đầu râm ran những lời đồn đại huyền hoặc về nhân vật võ lâm Tàu Sáu - Cụ từng sang Trung Quốc xuất gia tu thiền học võ tại chùa Thiếu Lâm trên núi Tung Sơn. Khi thành đạt, muốn hoàn tục trở về nước nhưng không được chấp nhận, cụ đã tự mình xuống núi và lần lượt hạ gục các cao thủ trấn giữ ở 108 cửa lên xuống Thiếu Lâm Tự.
Chuyện này rõ là nhại theo tích "quá ngũ quan trảm lục tướng" của Quan Công (Quan Vân Trường trong Tam Quốc Chí), còn chi tiết 108 cửa Thiếu Lâm Tự chỉ là "nghe lơ mơ" rồi "chế đại". Chứ thật ra như sau:
|
Một thế Thủ và Công của Bình Thái Đạo. Ảnh TL của DLB
|
Theo qui môn Thiếu Lâm Tự, để được chính thức công nhận là môn đồ của môn phái, cho dù xuất sư xuống núi, người môn sinh phải trải qua một cuộc khảo hạch, thử thách toàn diện, cả về bản lãnh võ công cho đến kiến thức, cách xử thế, trí thông minh... Trong phần võ công, ngoài việc thi triển những thành tựu công phu trước hội đồng môn phái, người môn sinh còn phải đi qua một hành lang nhỏ hẹp có đặt sẵn 108 cặp mộc nhân, mộc mã được thiết kế theo họa đồ của Đạt Ma Sư Tổ. Khi được khởi động, 108 cặp nhân mã này sẽ lần lượt "đánh" ra 108 thế võ nhất định. Nếu công phu chưa tới, người môn sinh sẽ bị đánh gục ngay. Nhưng những điều đó là chuyện của hàng ngàn năm trước. Nó thuộc về lịch sử lâu đời của Thiếu Lâm Tự, và sau chỉ còn trong trí tưởng tượng của người đời...
Khi cụ Tàu Sáu mất, người con trai nối nghiệp cụ là võ sư Diệp Bảo Sanh - ở Quy Nhơn có nhiều người quen gọi là Lai Sanh Đường (tiệm thuốc Bắc Lai Sanh Đường) – cũng tiếp tục thu nhận môn đệ. Từ đây, phái võ này có tên là Bình Thái Đạo (võ Bình Định, phái An Thái); và đã có những bước tiến đáng kể về mặt tổ chức môn phái cũng như phương pháp huấn luyện.
Hiện nay, võ phái này đang được các đệ tử của võ sư Diệp Bảo Sanh, thuộc thế hệ môn đồ thứ ba, tiếp tục truyền dạy tại nhiều nơi ở Bình Định và thành phố Hồ Chí Minh và một số nước trên thế giới.
|