Quỳnh Phủ Nguyễn Diêu – ông đồ nghệ sĩ
16:21', 28/5/ 2011 (GMT+7)

Sinh thời cụ Đào Tấn có lần đi viếng mộ thầy Quỳnh Phủ Nguyễn Diêu rồi để lại cho chúng ta một bài thơ viết về nỗi niềm hối hận của cụ trước mộ thầy. Bài thơ đó nhan đề và nội dung như thế này:

Sơ thu vãng yết nghiệp sư Nhơn Ân Nguyễn tiên sinh sơn phần cảm thuật

(dịch nghĩa: viết trong dịp tháng 7 đi viếng mộ Nguyễn tiên sinh thầy dạy nghề ở Nhơn Ân).

 

Thu khí bán sơn hoàn cổ mộ

Xuân phong nhất nguyệt ức tiên sinh

Càn khôn nộn tán qui lai vãng

Không phụ ngô sư hối nhữ tình

 

Nghĩa là:

Hơi thu tỏa lưng chừng núi và quanh ngôi mộ cổ

Nhớ khi đến với thầy như ngồi giữa gió xuân

Đất trời (thời thế) đã đảo lộn rồi mà ta thì về chậm

Lòng rất hối hận vì đã phụ lời thầy dạy bảo

 

Ông Đỗ Văn Hỷ dịch thơ:

Thu quyện quanh mồ, thu nửa núi

Nhớ thầy nhớ ngọn gió xuân xưa

Đất trời nghiêng ngả sao về muộn

Luống phụ thầy ta những dặn dò

 

Có lẽ bài thơ này ra đời vào những năm 1883–1885, thời kỳ “bốn tháng ba vua”, thời kỳ cụ Đào bỏ quan về quê, rồi đi tu ở chùa ông Núi. Tuy chuyện bỏ quan bị triều đình giáng chức bốn cấp, nhưng đổi lại cụ được thoát khỏi cái xiềng danh lợi, và được dịp thăm mộ thầy, tạ lỗi với hương hồn thầy cho thanh thản lòng mình. Quỳnh Phủ Nguyễn Diêu là thầy dạy chữ thánh hiền, đồng thời truyền nghề viết kịch bản hát Bội cho trò Tấn, nên cụ Đào Tấn mới có từ tôn vinh là “nghiệp sư”.

 

KỲ 1

 

Ở Bình Định, mãi đến ngày nay người ta còn truyền tụng về giai thoại văn chương giữa thầy trò cụ Nguyễn và cụ Đào rằng sau khi cụ Nguyễn qua đời đã khá lâu, trong một dịp nhân đọc lại vở tuồng Ngũ hổ bình Liêu cụ Đào phát hiện ra rằng đoạn tuồng Địch Thanh qua ải, Nguyễn tiên sinh xử lý chi tiết kịch còn chưa thấu tình đạt lý. Nguyên tác cụ Nguyễn viết:

 

Công chúa:

Cáp Man!

Nghe lệnh mỗ ân cần

Đóng cửa thành cẩn mật

Nhược hữu nhất hào sơ thất

Tất cam trọng tội nan đào!

 

Thế nhưng đến khi vợ chồng gặp nhau giải tỏa được cái tội trốn vợ mà đi thì công chúa lại không truyền mở cửa thành mà chỉ than thở rồi đưa tiễn chàng đi:

 

Công chúa:                             

Chưa lạt rượu giao hoan một chén

Đã xem hình vĩnh biệt ngàn trùng

Khó theo chân thảo tặc (với) Nguyên nhung

Xin soi dạ tư phu thục nữ

(HÁT NAM)                                

Soi dạ tư phu thục nữ

Đoạn thâm tình, nhất khứ, nhất lưu        

 

Địch Thanh:                              

Ruột dường dao cắt chín chiều

Sương sa trước mặt, gió hiu bên đường

 

Công chúa:                              

Mối duyên Chức nữ – Ngưu lang

Cầu Ô đã bắc lại toan dứt cầu

 

Địch Thanh:                              

Dùng dằng nghĩa trước, tình sau

Dây phiền đó buộc, chuỗi sầu đây mang

 

Và câu hát nam cuối chia tay:

 

Công chúa - Địch Thanh:      

Dứt tình một khúc Dương Quan

Tây Liêu anh tới, Đơn bang em về

 

Vậy thì cửa thành còn đóng kín chàng Địch Thanh làm sao đi được, rằng chưa thấu tình, đạt lý là ở chỗ ấy. Do đó cụ Đào phải thịt một con heo làm lễ vật mang đến nhà thờ Nguyễn tiên sinh ở làng Kỳ Sơn vái lạy thầy xin phép mở cửa thành cho Địch Thanh qua ải bằng cách viết thêm một đoạn ngắn tiếp sau câu hát nam thứ tư (…chuỗi sầu đây mang).

 

Công chúa:   

Cáp Man!         

Truyền Cáp Man mở ải

Đặng cho ta đưa Nguyên soái lên đàng

Phu quân ôi! Song lụy san san! (nước mắt dầm dề)

Thốn tâm cảnh cảnh! (tấm lòng xốn xang)

Hồn ly biệt dường mê, dường tỉnh

Mối ân tình khó dứt, khó chia

Cõi Tây Liêu hiểm trở sơn khê

Con Tinh La Hải (nó) cao cường pháp thuật

Sợ khó nỗi bêu đầu ác tặc

Mẹ, mẹ ơi! Biết bao giờ thấy mặt từ nhan?!       

Phu quân ôi! Rượu vơi vơi nâng rót chén vàng

Chân rén rén dìu đưa người ngọc

 

(HÁT NAM)       

Rén rén dìu đưa người ngọc

Kể khôn cùng, chân tóc, kẽ răng!

 

Địch Thanh:

Thôi, em ở lại, sương sa hoa nở, mẹ tròn con vuông rồi anh sẽ về

(HÁT NAM)       

Anh hùng nước bước còn săn

Đừng dun mày liễu, mà quằn ruột lan

 

Và tiếp theo là nối với câu hát nam của Nguyễn tiên sinh:

Dứt tình một khúc Dương quan

Tây Liêu anh tới, Đơn bang em về

 

Đi đôi với sự truyền tụng giai thoại văn học nói trên, người Bình Định, học lâm Bình Định xưa nay còn bình phẩm rằng: “thanh xuất ư lam nhi thắng ư lam” nghĩa là màu xanh từ màu chàm mà ra nhưng đẹp hơn màu chàm.

  • VŨ NGỌC LIỄN

(còn tiếp)

In trang Gửi phản hồi

CÁC TIN KHÁC >>
Tuyệt kỹ “Miêu tẩy diện” của Lý gia  (19/01/2011)
Người giữ lửa cho “Siêu xung thiên”  (27/12/2010)
Kỳ cuối: Nguy cơ mai một truyền thống  (26/11/2010)
Kỳ 3: Nhìn lại công tác tuyển chọn, đào tạo VĐV   (24/11/2010)
Kỳ 2: Mạnh mẽ “dòng chảy” võ Bình Định  (24/11/2010)
Kỳ 1: Võ Bình Định hay võ cổ truyền Bình Định ?   (22/11/2010)
Kỳ cuối: Gia đình võ học  (21/10/2010)
Sông côn - dòng sông võ học - Kỳ 3: Tầm sư học đạo  (20/10/2010)
Hội “đổ giàn” trong miền ký ức  (18/10/2010)
Sông Côn - dòng sông võ học  (17/10/2010)
Chuông vang xứ người  (11/08/2010)
Đại lão võ sư đào Thanh  (09/08/2010)
Võ Bình Định ngời sáng vẻ đẹp nhân văn  (30/07/2010)
Một số võ đường là điểm tham quan Liên hoan Quốc tế Võ cổ truyền  (27/07/2010)
Võ đường Lê Kim Hoàng  (14/06/2010)