KỲ 5
Tiếp theo, chúng tôi bàn đến vở Võ Tam Tư trảm Nguyệt cô, ông Đoàn Nồng gọi là Võ Tam Tư trảm hồ, ông Quách Tấn gọi là Cổ miếu vãn ca, các nghệ nhân thường gọi ngắn gọn cho dễ nghe là Tiết Giao đoạt ngọc, hay Hồ Nguyệt cô mất ngọc, hoặc Chém cáo. Trong số các tên gọi trên đây thì tên Cổ miếu vãn ca, từ ngữ liên quan đến thổ ngữ Bình Định, nên nếu không giải thích cặn kẽ thì không dễ hiểu, ngay cả người Bình Định.
“Vãn ca” nghĩa là điệu hát Nam. “Cổ miếu vãn ca” nghĩa là điệu hát Nam nơi miếu cổ. Ở Bình Định vì là kinh đô của hát Bội nên đám thanh niên ham chơi ngày xưa thường mượn tên làn điệu hát Bội làm từ lóng, truyền đạt cho nhau, người ngoài cuộc nghe không hiểu nói gì. Ví dụ đôi trai gái đang tán tỉnh thì họ nói chúng đang hát khách. Còn họ nói chúng đang hát Nam thì có nghĩa là đang cùng nhau âu yếm. Nói trắng ra Cổ miếu vãn ca có nghĩa là cuộc làm tình nơi miếu cổ. Chung quanh việc xác định tác giả của tác phẩm này có hai luồng ý kiến:
- Quách Tấn cho rằng tác phẩm này là của Đào Tấn, do “nhóm mộ điệu” như Mai Cao Lương, Đoàn Phong… ở Tây Sơn nói vậy.
- Đoàn Nồng qua sách Sự tích và nghệ thuật hát Bộ xuất bản năm 1942 viết: “Theo dã sử, theo tán từ của cụ Hà Đình để lại về tiểu sử của cụ Đào Tấn, ta biết rằng trước cụ Đào Tấn có ông tú tài Nguyễn Văn Diêu, người làng Nhơn Ân, phủ Tuy Phước, tỉnh Bình Định, tác giả của tuồng “Ngũ hổ bình Liêu”, tuồng “Võ Tam Tư trảm hồ”..vv…”
Cụ Phạm Phú Tiết thì viết trong sách “Chầu đôi” rằng: “Trước Đào Tấn : 1- Nguyễn Diêu, tú tài, làng Nhơn Ân, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định (thầy học của Đào Tấn) viết các vở: Văn vệ quốc, Võ Tam Tư trảm Nguyệt cô, Liệu đố, Ngũ hổ bình Liêu”.
Rà soát tiểu sử Đào Tấn do Đào Nhữ Tuyên viết thì không thấy nói có sáng tác tuồng “Cổ miếu vãn ca” trong khi các vở tuồng khác được miêu tả chi tiết thời gian sáng tác, nơi sáng tác.
Cụ Đoàn Nồng biên soạn sách “Sự tích và nghệ thuật hát Bộ” về phần cụ Tú Diêu trên cơ sở tài liệu Tán từ của ông Hà Đình, mà như chúng ta đều biết ông Hà Đình Nguyễn Thuật (người Quảng Nam) là bạn chí thân của cụ Đào Tấn. Đời thơ cụ Đào Tấn viết về ông Hà Đình đến hai bài: “Cửu nhật muộn tọa đắc Hà Đình tướng công dạ phỏng”, “Tuế mộ ngẫu chiếm thư ký Hà Đình hưu ông”. Lúc Đào Tấn qua đời ông Hà Đình vào Bình Định tiễn đưa bạn về nơi an nghỉ cuối cùng núi Huỳnh Mai. Chính ông Hà Đình viết câu đối điếu trên mộ Đào Tấn và câu đối thờ Đào Tấn ở Đào công bửu từ trong khuôn viên đình Vinh Thạnh. Vì vậy, có thể nói rằng lời của Hà Đình nói ra tương đương lời Đào Tấn nói.
Lại nữa, lúc biên khảo sách “Sự tích và nghệ thuật hát Bộ”, ông Đoàn Nồng “có nhờ cụ thượng Ưng Bình, cụ nguyên ngự tiền văn phòng ty trưởng Trần Trinh Cáp chỉ vẽ, dắt dìu”, mà các cụ này đều là người am hiểu tuồng tích xưa, hiểu rất kỹ về thầy trò Đào Tấn. Vậy chúng ta tin vào một tài liệu có văn bản, có con người như Hà Đình đáng tin cậy hay tin vào “nhóm mộ điệu” sau này.
Tuồng “Võ Tam Tư trảm Nguyệt cô” miêu tả câu chuyện nửa thực nửa hư trong tiểu thuyết thời tàn Đường, tức là thời Võ Hậu (tức Võ Tắc Thiên) nắm quyền, lập ra nhà Chu. Võ Tam Tư là cháu gọi bằng cô của Võ Tắc Thiên làm nguyên soái, thống lĩnh binh quyền. Các công thần nhà Đường lập căn cứ ở Cửu Diệm sơn, có Tiết Cương đã già mà còn dũng lực, có Từ Mỹ Tổ làm quân sư, “vận trù duy ốc chi trung, quyết thắng thiên lý chi ngoại”, nhất là hậu duệ của dòng họ Tiết, như Tiết Giao… vẫn tiếp tục nối nghiệp ông cha chiến đấu chống lại Võ Tắc Thiên hòng khôi phục nhà Đường.
Hồ Nguyệt cô là nhân vật trung tâm, nhân vật chủ đề của tác phẩm. Gọi là Hồ Nguyệt cô vì nàng vốn là một con cáo, nhờ lên tiên, tu luyện lâu năm có được ngọc người mà được làm người.
Lúc rời cõi tiên xuống trần để cứu đời, Tiên Mẫu có dặn: hễ gặp chàng trai nào mặt trắng hoặc mặt đỏ thì kết duyên vì đó là những con người tốt. Lần đầu giao tiếp với cõi trần nàng gặp Võ Tam Tư với gương mặt nửa trắng nửa đỏ ngỡ là người tốt, nàng vớ ngay làm chồng. Cuối cùng chính Võ Tam Tư là kẻ giết nàng.
Kịch bắt đầu từ Võ Tam Tư ra trận bị thất bại, chờ viện binh của vợ là Nguyệt cô cứu viện trong khí thế rất chi hăng hái:
Mã phùng Bá Nhạc
Hồng ngộ thuận phong
Nguyện triển chí anh hùng
Cho biết tài nhi nữ
Nàng ra quân đánh trận đầu thắng phe Cửu Diệm sơn, bắt sống tướng Trịnh Bửu, gây cho phe Cửu Diệm sơn mà đứng đầu là Nguyên soái Tiết Cương bị lao đao, vì mất một danh tướng rường cột. Tiết Cương đòi ra trận, Từ Mỹ Tổ không cho:
Lửa tàn đã lạnh hơi lò
Nhà ngã lấy ai làm cột?
Thế chẳng đặng đừng, phải cử một tướng trẻ chưa có kinh nghiệm chiến trường ra quân tiếp chiến với Nguyệt cô. Theo quân sư Từ Mỹ Tổ phân tích:
Tài lưu mà địch với nữ lưu
Phúc tướng cũng hơn trí tướng
Gặp phải một tướng trẻ non tơ, mặt trắng màu phấn hồng liền nhớ đến lời thầy dạy, nàng mê say đắm đuối, bởi vì:
Cái người mần răng mà…
Cất con vát như bông bay lá rụng
Giục vó lừa dường mưa tạt mây tuôn
Tôi nghĩ như tôi chừ
Vào vườn đào (thì) hồn điệp phải điên cuồng
Mà tôi khen cho đó
Gặp tin bướm (sao) phách hoa còn lơ lửng
Đó là những ý nghĩ trong đầu nàng, chứ bên ngoài thì nàng gây sốc với Tiết Giao:
Ớ ông Đường trào công tử! Tôi hỏi đây này…
Danh thùy tánh thậm?
Niên kỷ nhược hà?
Chốn sa trường sao dám dương qua
Hay là
Trong Đường thất đã hết tay cất vát (rồi à?)
Tiết Giao trả lời rằng:
Ủa lạ, cha chả… coi nỗi
Trong trận tám (còn) buông lời diễu cợt
Giữa quân ba (sao) không biết thẹn thuồng
Ớ con kia! Mi đã hỏi tên ta thì ta nói cho mà nghe
Ngã Tiết Giao thân đổng binh nhung
Phụng thiên thảo tiểu trừ nghịch tặc (nhà bay đây bay)
Thế là cuộc chiến kỳ lạ bắt đầu. Nguyệt cô giả vờ bại, Tiết Giao tất phải đuổi theo tiêu diệt. Nguyệt cô nghoảnh lại cười thầm:
Nực cười mặt xuân xanh
Mà lầm tay má phấn
Nhưng Tiết Giao đang lo làm nhiệm vụ cứu nước của anh ta chứ có thì giờ đâu mà ghẹo gái mà nàng lại trách anh ta:
Trách ai tình khéo vô tình
Gẫm thiếp ý nên hữu ý
Sứ điệp đã lẳng lơ thế ấy
Tin ong còn lạt lẽo nỗi này
Hễ làm người với người ta
Có trải thú mưa mây
Mới biết mùi trăng gió
Cái người làm sao tôi nói không nghe…
Còn hung hăng sức đó
Chẳng đoái chút tình riêng
Nếu mà
Để cho thục nữ lòng phiền
Thời cũng trượng phu sức mệt
Tiết Giao tỏ thái độ cực đoan rằng:
Miệng buông lời phong nguyệt
Mặt chẳng biết hổ han
Dẫu líu lo dụ mỗ trăm đàng
Cũng sanh tử với nàng một trận
Đánh cho phai má phấn
Đánh cho lợt môi son
Để chi thói thuần bôn
Để chi loài uế đức
Thế là Nguyệt cô nàng nổi giận:
Nghĩ đà nên tức
Nói chẳng biết nghe
Thời đã
Chỉ nước non đây quyết hẹn thề
Răng mà
Dạ vàng đá đó càng bền chặt
Đó là tại chàng chớ chẳng phải tại thiếp đó nghe! Chi nữa…
Triển ngô diệu thuật
Khán ngã kỳ tài
Nàng phù phép làm cho Tiết Giao tâm hồn bất định:
Dưới ngựa tỉnh mê mê tỉnh
Trong trường không sắc sắc không
Hồn phất phơ dường tới Vu phong
Phách thơ thẩn như qua bích thủy
Cảnh khác miền thành thị
Lại gặp trận võ vân
Chốn sa trường lờ lạt bóng trăng
Nơi cổ miếu lại qua hơi gió
Kết quả của phép màu làm cho Tiết Giao không còn sức tự chủ thì Nguyệt cô hành lạc:
Sao còn nằm đó
Mà chẳng đuổi đây?
Coi cái mặt kìa! Chi nữa…
Mặc tình ta mưa gió gió mưa
Dẫu ý thiếp nguyệt hoa hoa nguyệt
(Nguyệt cô ôm Tiết Giao vào lòng hôn hít)
Hết khoe tài oanh liệt
Đã vào cuộc lao lung (thời đã rồi)
Thử thời bất sát, cánh đãi hà thời?
Muốn ra tay (cho) vắn số anh hùng (đó chúc)
Nhưng mà
Còn nghĩ lại chút tình ân ái (nên ta không nỡ giết)
Chi nữa
Chốn viên môn trở lại
Chỉ cựu lộ huy tiên
Phen này
Cưu gọi loan, mặc thiếp đảo điên
Cứng với rắn dễ ai tỏ biết (?)
Nhưng mà không đặng, chừ tôi về không mần ri chắc không xong, thời
ta cũng…
Muốn lộn lạo trong trường hư thiệt (lắm chúc)
Nhưng mà e
Khó phôi pha những tiếng thị phi
Vả tôi đi đánh giặc mà chưa trảm đắc nhất tướng, thối đắc nhất binh,
nữa về, phu quân tôi hỏi thời tương hà vi tín, tôi biết nói sao đây!
Thôi thôi…
Đoạn
chút tình đành phụ với ai kia
Lấy thủ cấp đặng làm tin cùng đó
(Giơ gươm muốn chém, lại thôi)
Cái người làm răng mà khó giết…cha chả
Đoạn tình đi cũng khó
Đưa gươm xuống chẳng đành
Nhưng mà người ta đã chết rồi, có sống lại được đâu mà lo
Đã ngẩn ngơ một dự tuổi xanh
Khôn gắng gượng ba phân mạng bạc
Thôi, ở lại đó để ta đi về
Như vậy đó, sau khi thỏa mãn công việc hành lạc, thỏa mãn dục vọng của nàng thì nàng tính giết Tiết Giao. Cũng phải ghi nhận chút tình luyến tiếc của nàng, chứ không thì tác giả không lấy gì viết tiếp đoạn sau là nhờ Lý Tịnh tiên ông đến cứu, Tiết Giao sống lại. Tiết Giao lại khiêu chiến làm cho vợ chồng Võ Tam Tư xục rục, rạn nứt. Nguyệt cô lại ra trận tiếp chiến với Tiết Giao. Lần này thì Tiết Giao chủ động đáp ứng đòi hỏi của nàng và nàng bị mất ngọc.
Tác giả miêu tả cuộc làm tình:
Nguyệt cô:
Đó đã đem lòng ghẹo nguyệt
Đây đâu có dạ ngăn ong
Mặc ý tình lang…
Phân lưu bất cấm thủy tây đông
Tịnh túc hoàn giao oanh thượng hạ
(Hai người ôm nhau… đại loạn….Nguyệt cô thổ ngọc, Tiết Giao giơ tay hứng lấy)
Nguyệt cô cất tiếng hát run sợ:
Thất sắc, thất sắc
Kinh hồn, kinh hồn
Trăm lạy tình lang trả lại cho em nào!
Uổng trăm năm thâu góp báu càn khôn
Sẩy một phút tan tành trường phong nguyệt
Đã với đó chiêu phong lộng điệp
Xin thương đây phách quế hồn hoa
Dấu xưa dầu nhuần gót hương khuê
Báu cũ mới nhờ ơn hiệp phố
Đoạt ngọc của Nguyệt cô để khôi phục cơ đồ nhà Đường đối với Tiết Giao đó là tính nguyên tắc. Anh ta không thể làm khác được. Nguyệt cô hối hận quá muộn màng, nàng lủi thủi rời khỏi cổ miếu về viên môn trong tâm trạng:
Hơi gió xuân man mác chốn u khuê
Bóng trăng xế mơ màng nơi bạch lãnh
Ôi!
Gió tỏa phất phơ vườn hạnh
Sương rây lác đác cành dương
Đã phủi rồi son phấn một trường
Đành trở lại nước non ngàn dặm
Rồi nàng hát Nam ai, một điệu Nam thống thiết thể hiện sự ân hận quá muộn màng!
Ngàn dặm, thẹn cùng non nước!
Gẫm mơ màng thân trước, thân sau?
Câu Nam này tác giả miêu tả tận cùng cái đáy tâm hồn của con người, rằng kiếp trước là con cáo nhờ tu luyện lâu năm mà được làm người, bây giờ đã xảy ra như thế này, rồi từ đây về sau sẽ như thế nào làm sao mà biết được!
Nàng hát tiếp:
Dặm hòe, một bước một đau
Nhìn xem cảnh cũ ra màu dở dang
Ôm lòng hổ với phu lang
Non sông lỗi hẹn cùng chàng từ đây!!
Vừa rồi tôi trích dẫn tác phẩm của cụ Tú hơi dài, nhưng là cần thiết, vì có thế mới đủ liều lượng thuyết phục các nhà thơ vì quá thương yêu Nguyệt cô, mà chưa thấy hành động của Nguyệt cô nên vội vàng oán trách Tiết Giao.
Người oán trách đầu tiên là nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát qua bài “Xem Nguyệt cô hóa cáo”:
Thôi đừng khóc nữa, Nguyệt cô!
Tìm đâu thấy ngọc bây giờ mà mong
Giá em đừng sống hết lòng
Giá đừng yêu, chẳng mơ mòng làm chi
Giá đừng khao khát mỗi khi
Trăng lên soi bóng rừng khuya sum vầy
Thì đâu ngọc mất trắng tay
Thì đâu đến nỗi đắng cay một mình
Trở về kiếp cáo buồn tênh
Tiếng kêu vọng khắp rừng xanh đến giờ
Giật mình vì chuyện người xua
Tiếng kêu như tỉnh như mơ giữa đời
Ước ao được sống kiếp người
Người lừa em – đắng một lời giao duyên
Xé lòng nghe tiếng em than
Tiếng kêu nhân thế vẫn vang vọng về
Nghìn lần xem vẫn đam mê
Trái tim buốt trước câu thề gió trăng
Cấm sao tơ nhện cứ giăng
Một đời dại – vẫn đa mang – một đời.
Người oán trách thứ hai là nhà thơ Văn Trọng Hùng qua bài “Cảm tác khi xem Nguyệt cô hóa cáo”:
Bỗng sụp đổ cả dinh cơ thành quách
Đêm giao duyên chết lặng giữa dối lừa
Em hiện lên ngơ ngác bơ phờ
Thân quằn quại, mái tóc mềm rũ rượi
Ôi ánh mắt – nỗi bàng hoàng tức tưởi
Tiết Giao!
Tiết Giao!
Giá thân trước biết lòng kia đen bạc
Thì bây giờ đâu quặn thắt thân sau
Giá lúc trước biết tâm người xem ngọc
Thì bây giờ đâu uất ức niềm đau
Tiết Giao!
Tiết Giao!
Dẫu trung quân trọn đạo
Dẫu hiếu thảo vẹn mười
Từ cáo em thành người
Là NGƯỜI em biết yêu
Vì yêu sao hóa cáo?
Tiếng trống chầu ngưng dạo
Đêm hát Tuồng đã tan
Nguyệt cô ơi phút mơ màng
Ta nghe tiếng khóc của nàng đâu đây
Giật mình – ngọc đã trao tay!
Đến người oán trách thứ ba Hoàng Kim Dung qua bài “Xem tuồng Hồ Nguyệt cô” thì sự oán trách càng gay gắt hơn:
Không còn những bức tường sân khấu
Ảo ảnh chập chờn lung linh màu sắc
Tiếng hát như xé vào không gian
Phá tan im lặng vô hình
Đánh thức cả trái đất già nua thuở trước
Những cái đầu cũ mới thời nay
Dẫu có cả ngàn năm tu luyện
Cho em thành một con người
Dẫu có mất cả trăm năm tu luyện
Cho em hơi ấm tình người
Vì muốn được yêu thương say đắm
Nên trao cả niềm đam mê nồng nhiệt
Không đắn đo thánh thiện mối tình
Để được biết trái tim mình rực lửa
Đón giọt sương hồng từ đất thánh nơi anh
Tiết Giao ơi! Em yêu chàng hơn ngàn viên ngọc
Nào ngờ chàng nỡ gạt em
Trả ngọc cho em, xin chàng trả lại
Chỉ một phút mà tan tành mây khói
Lại phải về nhận kiếp hồng hoang
Xem lại tích tuồng thoáng buồn vui giây lát
Đời đau thế khi niềm tin đổ vỡ
Khi trao tay đúng kẻ dối lừa
Muốn yêu thương mà chẳng được yêu
Điều ác độc dẫu không cầm lấy được
Nhưng có ở con người từ ngày ấy hoang sơ
Và hiện lên giữa thanh thiên bạch nhật
Đã lấy cắp một trái tim ứa máu
Làm nên danh vọng uy quyền
Hỡi Tiết Giao! Kỷ nguyên nào còn mất
Một thời lầm lỡ Nguyệt cô ơi!
Thân phận Nguyệt cô đáng thương thật, vì cái giá mà nàng phải trả cho sự sai lầm của mình quá đắt. Nhưng vì thương Nguyệt cô mà các bạn lại oán trách Tiết Giao thậm chí như nhà viết kịch Văn Trọng Hùng viết hẳn một vở tuồng lấy tên là Tiết Giao trả ngọc.
Dù sao hiện tượng này cũng cho thấy tác phẩm “Võ Tam Tư trảm Nguyệt cô” của cụ Tú Diêu quả thật lay động được trái tim muôn thuở. Bởi nó đặt ra và giải quyết vấn đề có màu sắc triết học: con người cũng là một động vật, khác với mọi động vật khác ở chỗ nhờ có cái ngọc Người. Nếu ai không coi trọng gìn giữ cái ngọc Người vốn có ấy thì kiếp cáo lại trở về kiếp cáo. Và dĩ nhiên tác dụng của tác phẩm sẽ tồn tại mãi trong đời sống xã hội loài người, trở thành một cẩm nang cho những ai muốn làm người đúng nghĩa. Nó sẽ hết tác dụng khi quả đất này không có loài người.
Nhìn vào toàn bộ sự nghiệp sáng tác của thầy trò cụ Tú Diêu tôi thấy có hai nét nổi bật mà những người cùng thế hệ với hai cụ không có được. Đó là:
Đào Tấn đưa chuyện chửa đẻ lên sân khấu làm cho sân khấu thêm linh thiêng.
Quỳnh Phủ Nguyễn Diêu đưa chuyện làm tình lên sân khấu làm cho sân khấu hát Bội nới rộng không gian, phát huy khả năng biểu hiện nghệ thuật của mình. Theo tác giả, để phơi bày sự sa đọa đến mức tận cùng của con người thì dù là chuyện phòng the cũng cần gì phải giấu diếm? Với thời đại ngày nay thì đó là chuyện thường; với thời đại cụ Tú Diêu thì đó là hiện tượng nghệ thuật đi trước thời đại.
(còn tiếp) |