Lê Đại Cang là một vị nho tướng,
từng cầm binh dẹp loạn Chân Lạp, đánh đuổi quân xâm lược Xiêm La. Hơn 40 năm làm
quan, 14 lần thăng quan, hai lần giáng chức, một lần kết án “trảm giam hậu”. Khi
là Thượng Thư Bộ Binh kiêm Hữu Đô Ngự Sử, lúc là “đoái tì binh dõng tiền quân hiệu
lực”, khi là phạm nhân bị hạ ngục chờ chém. Dù trong hoàn cảnh nào, Lê Đại Cang
vẫn “ngạo nghễ” trên đỉnh cao tài năng, bản lĩnh và nhân cách.
|
Một trong 4 đạo sắc
phong do vua Thiệu Trị ban cho Lê Đại Cang.
|
Một kẻ
sĩ giỏi cả văn lẫn võ
Thủy tổ Lê Đại Cang là Lê Công
Triều, làm quan dưới triều Lê, sau theo chúa Nguyễn Hoàng vào lập nghiệp ở huyện
Bồng Sơn. Lê Đại Cang là cháu 6 đời của Lê Công Triều. Ông sinh năm 1772 tại
làng Phú Nhơn, huyện Tuy Viễn (nay là thôn Luật Chánh, xã Phước Hiệp, huyện Tuy
Phước). Cha tên húy là Tử Hậu, vốn dòng dõi thế tập chết được tặng Hàn lâm viện Thị giảng
Học sĩ phẩm tùng tứ (4-2). Mẹ Nguyễn Thị Quản chết được tặng cung nhân. Bác tên
húy là Tử Mẫn, làm chức Nội tán Viện thị thơ dưới đời chúa Nguyễn. Chú tên húy
là Tử Miễn (Công Miễn), làm chức Thượng thư Bộ Hình triều Tây
Sơn.
Thân thế sự nghiệp Lê Đại Cang được
nhiều sách sử ghi lại như: Đại
Nam chính biên liệt truyện,
Đại Nam Nhất thống chí, Danh nhân Bình
Định, Nhân vật Bình Định,… Lê Đại Cang không những nổi tiếng về văn chương
mà còn giỏi cả võ nghệ.
Theo bài tự dẫn trong Lê thị gia phả do ông biên soạn năm 1826
“…Nhà ta đời đời theo nghiệp nho…ở nhà được cha dạy Kinh thi Kinh lễ…Năm 16 tuổi
theo học quan Thị giảng họ Nguyễn (tức Nguyễn Tử Nghiễm, Thị giảng triều Tây
Sơn, là cha của Thượng thư Bộ hình triều Nguyễn là Nguyễn Tử Diệu). Sau đó học
tiên sinh thọ Đặng (tức Đặng Đức Siêu, Thượng thư Bộ lễ triều Nguyễn). Năm 21
tuổi (1792), lại gặp chiến tranh, khó bắt chước được chí hướng của tổ tiên. Bấy
giờ chỉ biết nhờ thầy mà ôn tập, bắt chước thầy mà dùng lưỡi thay cày…”.
Trong suốt 10 năm vừa ôn luyện văn
chương (1792-1802), vừa dạy học, ông vừa học võ, và đặc biệt ông còn âm
thầm nghiên cứu binh pháp. Vốn có sức mạnh bẩm sinh nên các loại côn đao ông
đều sử dụng nhuần nhuyễn. Vũ khí thường dùng của ông là thanh đại đao.
Thăng trầm đường quan chức, binh
nghiệp
Năm Gia Long thứ nhất (1802), được
trấn thần Bình Định là Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Hoài Quỳnh tiến cử, ông dự
tuyển và được triều đình bổ nhiệm làm tri huyện Tuy Viễn. Sau đó, ông giữ
chức vụ: Kiểm sự Bộ Binh (1810). Năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) ông làm Hiệp Trấn
Sơn Tây, Cai bộ Quảng Nam, Cai bộ Vĩnh Long, Tham tri Bộ Hình (1929), Quản lý bờ
đê Bắc Thành (1831), Thượng thư Bộ Binh kiêm Hữu Đô Ngự sử (1832), Tổng đốc 3
tỉnh Sơn Hưng Tuyên kiêm lãnh Hà Nội, Ninh Bình tổng đốc sự vụ, Tổng đốc hai
tỉnh An Giang – Hà Tiên kiêm lãnh trách vụ bảo hộ Chân Lạp
(1833).
Tháng 5 năm Minh Mệnh thứ 14 (1833),
vụ binh biến Lê Văn Khôi, tỉnh thành An Giang thất thủ, ông bị cách chức xuống
làm “đoái tì binh dõng tiền quân hiệu lực”, ra trận phải đi trước lập công chuộc
tội. Ông phải xông pha nơi đầu tên mũi đạn cùng với viện binh triều đình tái
chiếm được các tỉnh đã mất. Nhờ công trạng này ông được khôi phục chức Viên
ngoại lang lãnh Án Sát sứ An Giang.
Cuối năm Minh Mệnh thứ 14 (1833),
nhân có lời cầu của Lê Văn Khôi, vua Xiêm sai quân thủy bộ chia làm 5 đạo nhất
loạt tiến đánh Hà Tiên, Nam Vang, Cam Lộ, Cam Cát và Trấn Ninh. Tuy chia 5 đạo
nhưng chủ đích Xiêm là đánh Chân Lạp và Nam Kỳ. Minh Mệnh cấp tốc điều động các
tướng chỉ huy bảo vệ cả 5 mặt trận, Lê Đại Cang được giao nhiệm vụ đem bộ binh
noi theo đường Quan Hóa tiếp cứu Nam Vang, một mặt trận then chốt.
Ông vừa đến Chân Lạp thì quân Xiêm
đã chiếm Nam Vang, Quốc Vương xứ này Nặc ông Chân bỏ kinh thành mà chạy. Ông thu
thập quân Miên và mộ quân nghĩa dũng bản xứ hợp cùng quân bản bộ tấn công quân
Xiêm. Liên quân đánh thắng nhiều trận, sau ông đem quân chặn đường tiếp tế của
giặc, nhằm cô lập thành Nam Vang. Thừa thắng từ mặt trận Hà Tiên, tướng Trương
Minh Giảng và Nguyễn Xuân tiến binh qua Chân Lạp phối hợp cùng quân của Lê Đại
Cang tấn công giặc, tướng Xiêm là Phi Nhã Chất Tri thất trận phải bỏ Nam Vang
dẫn tàn quân chạy về nước.
Ông cùng hai tướng Trương, Nguyễn
hợp binh truy kích giặc, chiếm giữ những nơi trọng yếu, lập đồn phòng ngự. Nhờ
chiến công này ông được thăng Tuần Phủ An Giang – Hà Tiên nhưng phải ở lại Nam
Vang.
Năm sau, Minh Mệnh thứ 15 (1834),
quan quân đưa vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân về nước. Cuối năm này, Nặc Ông Chân
mất, không con trai nối ngôi, vua Minh Mệnh phong người con gái là Angmey làm
Quận chúa, gọi là Ngọc Vân Quận Chúa. Vua đổi nước này gọi là Trấn Tây Thành,
cho Trương Minh Giảng làm chức Tướng quân và Lê Đại Cang làm Trấn tây Tham tán
Đại thần cùng lo việc trấn thủ. Năm ấy ông đã 63 tuổi, lấy cớ già yếu dâng xớ
xin từ quan nhưng vua Minh Mệnh
không cho, châu phê rằng “lão đương ích tráng” (già mà còn mạnh) lưu ông tại
chức.
Sau đó, ông được đưa về làm Tuần
phủ An Giang, còn việc bảo hộ Cao Miên được giao cho Trương Minh Giảng. Năm
1840, dân bản xứ nổi lên chống lại quan binh khắp nơi, quân Việt
Nam phải rút về An Giang. Trương Minh
Giảng tâu về triều đổ lỗi cho Lê Đại Cang. Tội “qui vu trưởng”, một lần nữa ông
bị cách chức, phải đến phục vụ tại quân thứ Hải Đông ở đạo Trà Gi với tư cách
lính trơn. Trên đường đi đến nhiệm sở mới, ông phải làm quân cáng
võng.
Khi tới Trà Gi, ông thấy quân thứ tổ
chức còn luộm thuộm, nên đã đích thân chỉnh đốn hàng ngũ, xếp đặt biền binh cho
có qui củ. Việc tới tai Trương Minh Giảng, bấy giờ thay ông làm Tham tán Đại
thần, Trương Minh Giảng bèn dâng sớ hạch ông về tội lạm quyền. Vua Minh Mệnh kết
án ông như sau: “ Đại Cang là kẻ bị cách chức phải sung tiền quân hiệu lực mà
hành động như một viên đại tướng, không sợ phép nước, chẳng kiêng công luận,
đáng làm án trảm giam hậu (giam lại, chờ sau sẽ chém)”. Ông bị giải về kinh
rồi hạ ngục.
Năm 1840, vua Minh Mệnh băng hà; năm
1841, vua Thiệu Trị lên ngôi. Bấy giờ nhân lễ giao bang với nhà Thanh, ông là
lão thần duy nhất của triều đình thông hiểu thể lệ nên được tân quân xá tội, cho
phục hàm Điển bộ lo việc bang giao; tháng 4 năm 1841, được thăng Phụng nghị Đại
phu Viên ngoại lang; tháng 7 năm 1841, thăng Trung thuận Đại phu Lang trung;
tháng 12 năm 1841, thăng Tổng đốc Bố chánh sứ tỉnh Hà Nội, Hà Đông. Bấy giờ ông
đã 70 tuổi, tự coi đã trả xong món nợ làm trai nên không tựu chức mà một mực xin
về hưu. Vua cố ép, ông cố từ, mãi đến năm Thiệu Trị thứ 3, ông 72 tuổi mới được vua chuẩn y hưu
trí.
Một nỗi niềm với bản
quán
Từ ấy, áo trắng về vườn, ông thật sự
thoát vòng cương tỏa. Trong buổi xế chiều của cuộc đời, ông vẫn còn trăn trở với
quê hương, vận động sáng lập Văn chỉ Trung Tín (Văn chỉ Tuy Phước, hiện nay vẫn
còn). Sau đó, lập Giác Am làm nơi tu tâm dưỡng tánh (ngày nay là Chùa Bảo Thọ),
lấy hiệu là Giác Am cư sĩ. Ông từ trần năm Kỷ Dậu (1849) tại Giác Am, thọ 78
tuổi. Về văn nghiệp, ông có soạn các sách: Nam Hành thi tập, Tục Nam hành thi
tập, Tỉnh ngu thi tập, Hành dư.
Cuộc đời Lê Đại Cang là những chìm
nổi trong bể hoạn mênh mang, là những thăng trầm trong sự nghiệp. Ông được thăng
thưởng quan tước nhiều lần vì những thành tích chiến công trong quân sự, kinh
tế, ngoại giao. Kinh qua các chức vụ: Thượng thư, Tổng đốc, Tham tán, Đại thần;
hai phen đốc xuất và quản lý bang giao với nhà Thanh; ba lần bảo hộ Phiên quốc
Cao Miên. Nhưng cũng nhiều lần bị giáng phạt cách chức, hai lần giáng làm “tiền
quân hiệu lực”, một lần kết án hạ ngục “trảm giam hậu”.
Hiện nay, dòng họ còn giữ 4 đạo sắc
phong do vua Thiệu Trị ban cho ông cuối cuộc đời làm quan. Cả bốn đạo sắc lần
lượt ban hành trong một năm (1841), trong đó có hai đạo ban trong một ngày:
Thăng ông từ Tư vụ chánh thất phẩm (7-1) lên Viên ngoại lang chánh ngũ phẩm
(5-1). Ba tháng sau ban sắc cho thực thụ Lang trung chánh tứ phẩm (4-1). Năm
tháng sau ban sắc cho lãnh chức Bố chánh sứ chánh tam phẩm (3-1). Từ tháng tư
đến tháng chạp (1841), trong vòng 8 tháng, thăng đến bốn phẩm lãnh – hàm chánh
tam. Điều đó chứng tỏ rằng không chỉ vì Vua Thiệu Trị ưu ái mà vì ông có tài đức
thực sự và Triều đình lúc bấy giờ rất cần ông. Cái tài của ông từng được vua
Minh Mệnh xác nhận: “Người làm việc nhanh, giỏi – Trẫm đã chọn biết” (Liệt
truyện, truyện Lê Đại Cang).
Xuất thân gia đình khoa bảng, ưu
thế rất lớn của Lê Đại Cang là văn võ song toàn. Ông có khả năng bao quát
đại cục, tường tận tình thế, ở cương vị nào ông cũng hoàn thành chức phận
của mình. Là một vị quan, ông giữ đúng “thanh, cần, thận, trực”, là một con
người ông có đủ trung dũng, trí tín. Hơn 40 năm làm quan, lúc thăng, lúc giáng,
nhưng Lê Đại Cang luôn là một trung thần, là con dân của đất Việt, mang hết trí
lực phục vụ tổ quốc; khi bị cách chức làm “tiền quân” hoặc bị kết án “trảm giam
hậu” ông vẫn kiên trì bày tỏ tài năng và lòng trung nghĩa và rồi lại vươn
lên.
Cuộc đời Lê Đại Cang là một biểu
tượng về cái tài, cái tâm của kẻ sĩ, một cuộc đời mà biết bao người xưa nay phải
khao khát, ngưỡng mộ. Những giá trị từ di sản và bài học lịch sử về thời kỳ Lê
Đại Cang cũng như cuộc đơi ông chứa đựng rất nhiều ý nghĩa cho hành trình đổi
mới của xã hội, đất nước và con người Việt Nam hôm
nay.
|