D
Danh nhân Bình Định
Vùng đất Bình Định “địa linh, nhân kiệt” đã sản sinh ra nhiều danh nhân, danh tướng xuất chúng, nổi bật nhất, vang danh nhất là người anh hùng áo vải, cờ đào, thiên tài quân sự Nguyễn Huệ - Quang Trung, nhà chiến lược “bậc thầy thiên hạ” Đào Duy Từ và Đào Tấn - hậu tổ nghệ thuật hát Tuồng nước ta.
Danh nhân thời chúa Nguyễn
Lương Văn Chánh
Lương Văn Chánh làm quan triều Lê đến chức Thiên Vũ Vệ đô Chỉ huy sứ. Năm 1558, ông vào Nam; năm 1578 được Chúa Nguyễn Hoàng bổ nhiệm làm Tri huyện Tuy Viễn. Ông có công lớn trong việc dẹp yên biên trấn và chiêu mộ dân xiêu tán đến Cù Mông và Bà Đài (nay là Xuân Đài) khai khẩn ruộng hoang ở vùng sông Đà Diễn. Năm 1611, Nguyễn Hoàng sai Chủ sự Văn Phong đem quân đánh chiếm phần đất phía nam đèo Cù Mông đến núi Thạch Bi, lập phủ Phú Yên gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hoà. Lương Văn Chánh được điều làm Tuần phủ Phú Yên.
Trần Đức Hoà
Trần Đức Hoà sinh năm 1544 tại làng Hy Văn, huyện Bồng Sơn, nay thuộc xã Hoài Sơn, huyện Hoài Nhơn. Ông được Chúa Tiên (Nguyễn Hoàng, 1600-1613) phong làm Tuần phủ Khám lý phủ Hoài Nhơn.
Năm 1602, Hoàng tử thứ 6 của Nguyễn Hoàng là Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, được bổ nhiệm làm Trấn thủ dinh Quảng Nam. Ông cho đổi tên phủ Hoài Nhơn thành phủ Quy Nhơn. Trần Đức Hoà được Nguyễn Phúc Nguyên bổ nhiệm làm Khám lý. Trần Đức Hoà rất được Nguyễn Phúc Nguyên tin dùng. Chúa Sãi thường mời ông về phủ yết kiến và được tiếp đãi rất hậu. Trần Đức Hoà tiến cử Đào Duy Từ được Nguyễn Phúc Nguyên trọng dụng, phong làm Nội tán Lộc Khê hầu.
Trần Đức Hoà chẳng những có công vỗ yên dân chúng, phát triển kinh tế, giữ vững biên cương, bảo đảm hậu cần, mà còn tham mưu cho chúa Nguyễn mở mang bờ cõi, kinh bang tế thế. Ông được Chúa sủng ái và gọi là “nghĩa đệ”.
Trần Đức Hoà là người đã cho phép các giáo sĩ phương Tây vào phủ Quy Nhơn truyền đạo. Ông cho xây dựng tại phố cảng Nước Mặn một thánh đường bằng gỗ. Tại nơi đây, đã ra đời quyển từ điển Bồ-La-Việt đầu tiên.
Trần Đức Hoà tạ thế năm 1615, hưởng thọ 71 tuổi. Ông được Chúa Nguyễn phong Phúc thần. Về sau, vua Gia Long truy tặng Trần Đức Hoà là Đệ nhất đẳng khai quốc công thần. Đền thờ ông được lập tại thôn Cự Tài, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn, nay vẫn còn.
Chàng Lía
Thuở nhỏ, Lía sống ở quê mẹ tại làng Phú Lạc (nay thuộc Phú Phong, huyện Tây Sơn), ở chăn trâu cho một phú hộ. Lía rất khoẻ, có tài võ nghệ. Sau khi đánh chết một tên lính chúa Nguyễn hống hách, ức hiếp dân lành, Lía trốn vào rừng gia nhập và làm thủ lĩnh đảng cướp Cha Hồ, Chú Nhẫn, chuyên cướp của nhà giàu, chia cho dân nghèo nên người theo rất đông. Lía đem quân đánh phá phủ thành Quy Nhơn, chém đầu quan Tuần phủ. Chúa Nguyễn cho đại quân vào đàn áp. Lía rút quân về cố thủ ở Truông Mây (Hoài Ân). Đánh mãi không phá vỡ được căn cứ của nghĩa quân, quân triều sai người lén bỏ thuốc mê vào rượu cho Lía và binh sĩ uống. Lía bị buộc chặt vào một tấm phản. Khi quân triều tấn công vào, Lía cố sức thoát khỏi vòng vây. Thấy căn cứ bị vây chặt, binh lính chết nhiều, Lía không chịu khuất phục quân chúa Nguyễn, phẫn uất tự sát. Cảm thương và kính phục vị anh hùng Võ Văn Doan, trong dân gian Bình Định có câu “Chiều chiều én liệng Truông Mây/ Cảm thương chú Lía bị vây trong thành”.
Hiện trong dân gian Bình Định còn lưu giữ “Diễn ca Văn Doan” bằng chữ nôm, thể hiện dưới hình thức hát Bội.
Nguyễn Hữu Tiến
Nguyễn Hữu Tiến còn được gọi là Nguyễn Hữu Tấn là con rể của Đào Duy Từ. Ông sinh năm 1602, tại làng Vân Trai, huyện Ngọc Sơn, tỉnh Thanh Hoá, di cư vào huyện Bồng Sơn, phủ Hoài Nhơn.
Năm Tân Mùi (1631), Đào Duy Từ tiến cử ông lên Chúa Nguyễn Phúc Khoát, được thu dụng làm đội trưởng hải quan, rồi thăng dần lên Cai đội, Chưởng cơ, Chưởng đình Tiết chế.
Năm Mậu Tý (1640), Nguyễn Hữu Tiến lập công lớn trong chiến dịch tấn công quân Trịnh đóng ở Thuận Hoá. Năm Canh Tý (1660), ông cùng Nguyễn Hữu Dật đem quân vượt sông Gianh chiếm đất Bố Chính, Nghệ An, Thanh Hoa.
Năm Ât Tỵ (1665), ông qua đời, hưởng thọ 63 tuổi.
Về sau, triều Nguyễn truy tặng Nguyễn Hữu Tiến chức Tiết chế Thuận quốc công, tước Anh quốc công và cho thờ ông tại Thái miếu và Võ miếu.
Đào Duy Từ
Ông quê làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia (nay thuộc xã Nguyên Bình, huyện Tĩnh Gia), tỉnh Thanh Hoá. Xuất thân là con nhà xướng ca nên trong kỳ thi Hương do nhà Lê tổ chức tại Thanh Hoá, Đào Duy Từ bị gạch tên. Ông rời bỏ quê hương, lần vào phủ Hoài Nhơn, đến ở chăn trâu cho một phú ông ở làng Tùng Châu (nay thuộc xã Hoài Thanh, huyện Hoài Nhơn). Qua lời giới thiệu của phú ông, Đào Duy Từ được Khám lý Trần Đức Hoà mời về nhà dạy học và gả con gái. Năm 1627, Trần Đức Hoà tiến cử Đào Duy Từ lên Chúa Nguyễn. Nguyễn Phúc Nguyên phong Đào Duy Từ làm Nha Nội tán, tước Lộc Khê hầu, trông coi việc quân cơ trong ngoài và cho được tham bàn quốc sự. Ông làm quân sư cho Chúa Nguyễn chống quân Trịnh, phát triển kinh tế, mở rộng lãnh thổ về phương nam. Ông đã khuyên Chúa Nguyễn đắp luỹ Trường Dục (Quảng Bình) năm 1630, và năm 1631 đắp luỹ Thầy dài hơn 3.000 trượng, cao 1 trượng 5 thước, chạy dài từ cửa biển Nhật Lệ đến núi Đào Mâu thuộc Đồng Hới. Luỹ Thầy được sử nhà Nguyễn gọi là “Định Bắc trường thành”. Đào Duy Từ đã biên soạn quyển binh pháp “Hổ trướng Khu cơ”. Ông còn là một nhà thơ, nhà soạn tuồng danh tiếng.
Đào Duy Từ có nhiều công lao với nước, với dân. Ông tạ thế năm 1634. Tuy sinh ra và lớn lên tại Thanh Hoá nhưng nơi ông hun đúc tài năng và ý chí làm nên nghiệp lớn là làng Tùng Châu thuộc phủ Hoài Nhơn nên thi hài ông đã được chúa Nguyễn đưa về mai táng tại làng Tùng Châu. Đền thờ Đào Duy Từ được lập tại làng Ngọc Sơn (nay thuộc xã Hoài Thanh, huyện Hoài Nhơn) vào năm Tự Đức thứ 12 (1859), đã được trùng tu nhiều lần, nay do một hậu duệ trông coi.
Danh nhân thời Tây Sơn
Đô đốc Đặng Xuân Bảo
Hiện chưa rõ ngày năm sinh, năm mất và quê quán của Đặng Xuân Bảo, một vị Đô đốc mưu lược, trung dũng, luôn đi tiên phong trong các trận đánh ác liệt của quân Tây Sơn.
Trong chiến dịch quét sạch 29 vạn quân Thanh xâm lược mùa xuân Kỷ Dậu (1789), Đặng Xuân Bảo lãnh ấn Đô đốc cầm đầu một đạo quân mai phục tại đầm Mực (Thanh Trì, Hà Nội), một cánh đầm vừa rộng lớn, vừa lầy lội.
Sau khi đồn Ngọc Hồi bị san phẳng, một bộ phận quân Thanh bị tiêu diệt tại trận, bọn sống sót tháo chạy về hướng Thăng Long. Vì có một cánh quân Tây Sơn chặn đường nên bọn tàn quân buộc phải dẫn xác vào trận địa bày sẵn do Đô đốc Bảo chỉ huy. Toàn bộ tàn quân địch đều bị chôn vùi tại đầm Mực.
Đặng Xuân Bảo là một vị tướng tận trung với nhà Tây Sơn. Khi quân Nguyễn kéo ra Bắc Hà đánh chiếm Thăng Long, Đặng Xuân Bảo bị địch bắt tra tấn, dụ hàng, nhưng ông không khuất phục mà nhịn ăn 5 ngày rồi tạ thế.
Tướng quân Phạm Cần Chỉnh
Phạm Cần Chỉnh quê huyện Phù Ly, nay là huyện Phù Cát. Ông là người khí tiết, thông minh, có trí nhớ tốt, ham đọc binh thư của Tôn Tử. Phạm Cần Chỉnh có sức mạnh phi thường, chưa tới 20 tuổi đã kéo cung nặng 300 cân, kéo nỏ nặng 6 thạch. Ông sử dụng tài tình giáo sắt, tướng sĩ gọi ông là “Phạm Thiết Sóc”.
Phạm Cần Chỉnh có nhiều công lao trận mạc đối với nhà Tây Sơn nên được vua Quang Trung ban cho họ Nguyễn trông coi binh quyền tại phủ Quảng Ngãi.
Thời Cảnh Thịnh, sau khi Phú Xuân, rồi Thăng Long thất thủ, Phạm Cần Chỉnh chạy lên Cao Bằng. Nguyễn Ánh nhiều lần dụ hàng, nhưng ông không chịu theo mà tiếp tục mộ quân phản công quân Nguyễn nhiều trận ác liệt. Quân Nguyễn gọi Phạm Cần Chỉnh là “Người kỳ lạ nhất thiên hạ”.
Đại Tư Mã Nguyễn Văn Danh
Nguyễn Văn Danh và Nguyễn Văn Huấn là hai anh em ruột; tổ tiên quê ở huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, bị Chúa Nguyễn bắt vào khai phá vùng hòn Chân Lớn, làng Sại Phong (nay thuộc huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi). Nhà nghèo, có chí lớn, hai anh em Nguyễn Văn Danh vào An Thái, huyện Tuy Viễn, theo học thầy giáo Hiến; ông là bạn đồng môn với ba anh em nhà Tây Sơn.
Do có công lao thời Quang Trung - Nguyễn Huệ, nên khi Cảnh Thịnh lên ngôi, Thiếu Bảo Nguyễn Văn Danh được giao cùng Đại Tư Mã Ngô Văn Sở trấn thủ Bắc Thành.
Sau khi dẹp xong quyền thần Bùi Đắc Tuyên (1795), vua Cảnh Thịnh lập tứ trụ đại thần gồm Thiếu Phó Trần Quang Diệu, Thiếu Bảo Nguyễn Văn Huấn, Đại Tư Đồ Vũ Văn Dũng, Đại Tư Mã Nguyễn Văn Danh. Thấy Trần Quang Diệu có uy quyền, Cảnh Thịnh sợ sinh biến bèn tước hết binh lực của Trần Quang Diệu; quyền lực của triều Cảnh Thịnh nằm trong tay Vũ Văn Dũng và hai anh em Nguyễn Văn Huấn, Nguyến Văn Danh.
Năm 1801, vua Cảnh Thịnh và triều thần nhà Tây Sơn bị quân Nguyễn đánh bật ra khỏi Phú Xuân, Đại Tư Mã Nguyễn Văn Danh hộ tống Cảnh Thịnh và triều thần vượt sông Gianh ra Bắc. Nguyễn Văn Danh suốt đời tận trung với nhà Tây Sơn và đã anh dũng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Thiếu Phó Trần Quang Diệu
Trần Quang Diệu quê làng Tú Sơn, xã Ân Tín, huyện Hoài Ân. Ông là con nhà giàu có, nhưng mồ côi cha từ nhỏ nên phải sống tự lập, nuôi ý chí học tập, trau dồi văn võ để sau này lập nghiệp.
Một hôm vào rừng Kim Sơn (Hoài Ân) săn thú, Trần Quang Diệu gặp ông lão tên là Diệp Đình Tòng, người Vĩnh Thạnh, huyện Tuy Viễn có tài dạy hổ. Cảm phục tài năng của ông lão, Trần Quang Diệu xin làm đệ tử. Diệp Đình Tòng là một võ sĩ cao cường đã đánh chết Tri huyện Tuy Viễn, thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), bị truy nã nên ông đưa gia đình vào núi Kim Sơn ẩn trốn. Sau 5 năm rèn dạy Trần Quang Diệu thành tài, trước khi nhắm mắt xuôi tay, sư phụ trao cho đệ tử thanh Huỳnh Long bảo đao được sản xuất từ thời Trần, căn dặn đôi điều rồi quy tiên.
Sau khi chôn cất sư phụ, Trần Quang Diệu xuống núi đi vào hướng Tây Sơn. Trần Quang Diệu vừa đến Thuận Ninh thì gặp cọp. Tay không đánh nhau với cọp từ sáng đến trưa, Trần Quang Diệu đuối sức và bị thương. May thay, vừa lúc đó, có Bùi Thị Xuân đến ứng cứu. Bùi Thị Xuân đưa Trần Quang Diệu về Kiên Thành ra mắt Nguyễn Nhạc. Trần Quang Diệu xin tham gia nghĩa quân Tây Sơn. Nguyễn Nhạc làm chủ hôn cho đôi bạn đời Trần Quang Diệu -Bùi Thị Xuân. Từ đó, trong các trận nghĩa quân Tây Sơn đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn, bình Nam, dẹp Bắc, Trần Quang Diệu luôn có mặt và đã lập công xuất chúng.
Năm 1786, Trần Quang Diệu được Nguyễn Huệ phong làm Tiết chế mang tượng binh và bộ binh mở đường rừng núi từ phía tây thành Hoàng đế theo dãy Trường Sơn ra tấn công, đập tan tuyến phòng thủ đèo Hải Vân; rồi cũng theo đường rừng, phối hợp với quân thuỷ đánh chiếm Phú Xuân, buộc phó tướng Hoàng Đình Thể phải tự sát trên bành voi, bắt chủ tướng Phạm Ngô Cầu giải về Quy Nhơn.
Năm 1790, Trần Quang Diệu làm Trấn thủ Nghệ An, được giao phụ trách bảo vệ Ai Lao và xây dựng Phượng Hoàng Trung đô. Tháng 9.1792, trước khi chết, vua Quang Trung cho triệu Trần Quang Diệu từ Nghệ An về kinh, căn dặn Trần Quang Diệu hết lòng phò Thái Tử Quang Toản dời đô ra Nghệ An.
Quang Trung băng hà, Bùi Đắc Tuyên nắm quyền nhiếp chính, lộng hành, kéo bè, kết cánh, nhưng Trần Quang Diệu vẫn hết lòng phò tá nhà Tây Sơn, giúp vua Cảnh Thịnh.
Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng là hai tướng rường cột nhà Tây Sơn, nhiều lần mang quân phản kích, chặn đứng quân viện của Nguyễn Ánh ở cửa Thị Nại, vây hãm thành Quy Nhơn, bức hàng Võ Tánh và Ngô Tòng Chu, chiếm lại thành Quy Nhơn. Nghĩa cử cao đẹp của Trần Quang Diệu cho khâm liệm Võ Tánh với nghi thức nhà tướng được mọi người kính phục.
Tháng 4.1802, Trần Quang Diệu dẫn đại binh từ Quy Nhơn ra bắc phò tá vua Cảnh Thịnh khôi phục vương triều Tây Sơn. Vừa đến Thanh Chương, Nghệ An, ông bị quân Nguyễn Ánh bắt cùng vợ và con gái là Trần Bích Ngọc. Ngày 30.11.1802, gia đình Trần Quang Diệu bị Nguyễn Ánh hành hình rất man rợ.
Đại Tư Đồ Võ Văn Dũng.
Thuở nhỏ, Võ Văn Dũng có tên là Độ, quê làng Phú Phong, huyện Tuy Viễn, nay là thôn Phú Mỹ, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn. Ông thông minh, có chí khí, là con nhà giàu có, được cha mẹ mời thầy về nhà dạy học; đi lại giao du với nhiều tầng lớp, nên hiểu biết nhiều, tầm nhìn được mở rộng. Đặc biệt, ông rất giỏi võ, nổi tiếng dũng cảm và mưu lược. Năm 20 tuổi, ông vào Phú Yên thọ giáo Đại sư họ Lương, dòng dõi Lương Văn Chánh. Ông trở thành một cao thủ nhưng luôn kín đáo, giữ nghề.
Khi nổ ra cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, ông tham gia ngay từ đầu cùng với Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, được anh em nhà Tây Sơn coi như cật ruột. Võ Văn Dũng tham gia chỉ huy nhiều trận đánh quân Nguyễn, quân Trịnh trong Nam, ngoài Bắc, được phong làm Đô đốc, là tướng chỉ huy đánh quân Thanh ở đồn Khương Thượng, góp phần làm nên chiến thắng oanh liệt Ngọc Hồi - Đống Đa (mùng năm Tết Kỷ Dậu, 1789) quét sạch 29 vạn quân Thanh ra khỏi đất nước ta.
Năm Nhâm Tý (1792), Võ Văn Dũng tham gia Sứ đoàn cùng Nguyễn Quang Thuỳ, Phan Huy Ich, Phạm Văn Trị (giả vua Quang Trung) sang Trung Quốc chúc thọ vua Càn Long tròn 80 tuổi. Về nước, ông được phong làm Đại Tư Khấu trấn thủ Bắc Hà. Năm 1794, ông được triệu về kinh. Sau khi cùng Nguyễn Văn Huấn trừ xong quyền thần Bùi Đắc Tuyên, Võ Văn Dũng được phong Đại Tư Đồ cùng Thiếu Phó Trần Quang Diệu, thiếu Bảo Nguyễn Văn Huấn, Đại Tư Mã Nguyễn Văn Danh là tứ trụ đại thần của triều Cảnh Thịnh. Năm 1799, thành Quy Nhơn bị quân Nguyễn Ánh đánh chiếm. Năm 1801, Võ Văn Dũng chỉ huy hơn 100 thuyền chiến án ngữ của Thị Nại, lập đồn bão và đặt đại bác tại núi Tam Toà và Bãi Nhạn (nay thuộc Quy Nhơn), phối hợp với quân bộ của Trần Quang Diệu vây hãm Võ Tánh và Ngô Tùng Chu trong thành Quy Nhơn, đánh quân viện của Nguyễn Ánh tại cửa Thị Nại không cho chúng vào đất liền. Quân của Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu chiếm lại thành Quy Nhơn; Võ Tánh và Ngô Tùng Chu tự sát. Năm 1802, quân Nguyễn Ánh từ Phú Xuân kéo vào đánh thành Quy Nhơn. Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu đưa quân theo đường thượng đạo tiến ra Nghệ An thì Võ Văn Dũng bị thổ dân Nông Cống (Thanh Hoá) bắt giao cho quân Nguyễn giết chết (Tuy nhiên, theo những phát hiện mới nhất thì Võ Văn Dũng đã trốn thoát về quê, đổi họ tên và sống ẩn dật cho đến lúc qua đời vào ngày mùng 8 tháng 2 âm lịch, thọ 80 tuổi. Cũng có tài liệu nói rằng ông đã trở lại An Khê, chiêu mộ đồng bào Thượng khởi nghĩa chống nhà Nguyễn, mãi đến đời Thiệu Trị (1841-1847) ông mới qua đời, thọ trên 90 tuổi).
Phò Mã Trương Văn Đa
Trương Văn Đa (có tài liệu viết là con thầy giáo Hiến) là con rể của vua Thái Đức Nguyễn Nhạc.
Nhận thấy vùng đất Gia Định ở cực Nam là rất quan trọng, nhiều lần bị quân Nguyễn Ánh tái chiếm, nên năm 1783, vua Thái Đức cử Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, Lê Văn Hưng và Trương Văn Đa đem đại binh vào Nam đánh đuổi quân Nguyễn. Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ, trên đường thuỷ, quân Tây Sơn tiêu diệt hoàn toàn thuỷ quân địch; trên bộ, Trương Văn Đa bắt sống tướng giặc Dương Công Trình; truy đuổi giặc đến Định Tường, chém chết tướng giặc Nguyễn Văn Quý trên mình ngựa. Tướng chết, binh tan, Nguyễn Ánh trốn thoát, đất Gia Định lại thuộc về quân Tây Sơn.
Trước khi rút đại quân về Quy Nhơn, Nguyễn Huệ giao Trương Văn Đa ở lại trấn giữ Gia Định. Vua Thái Đức cử thêm hai đại học sĩ là Cao Tấn Tựu và Triệu Đình Tiệp giỏi việc chính sự vào trợ giúp. Trương Văn Đa tăng cường binh lực, ổn định tình hình, chiêu hiền đãi sĩ, vỗ an dân chúng.
Năm 1784, Nguyễn Ánh rước 5 vạn quân Xiêm sang xâm lược đất phương Nam. Trước thế giặc vô cùng mạnh, quân ta chỉ độ vạn người, Trương Văn Đa chủ trương vừa chặn đánh tiêu hao địch, vừa từng bước rút quân về Mỹ Tho, giữ vững hữu ngạn Tiền Giang, chờ đại quân vào ứng cứu. Trên đường rút quân, Trương Văn Đa đã chém chết Châu Văn Tiếp, Đại đô đốc quân Nguyễn; cho quân mai phục tiêu diệt địch ở Ba Lai. Nhờ vậy, khi Nguyễn Huệ đem đại quân vào, có thể tiến thẳng xuống Mỹ Tho, làm nên chiến thắng vang dội Rạch Gầm-Xoài Mút, quét sạch 5 vạn quân xâm lược Xiêm ra khỏi giải đất phương Nam.
Sau chiến thắng này, Trương Văn Đa tiếp tục trấn giữ Gia Định thành. Ông ra sức tăng cường phòng thủ; phát triển sản xuất lương thực, cho binh sĩ luân phiên nhau canh tác cùng nhân dân; mở mang việc học hành, trọng dụng nhân tài.
Đến khi Nguyễn Lữ được phong làm Đông Định Vương cai quản Gia Định, Trương Văn Đa trở về thành Hoàng Đế. Từ đó, qua bao bước thăng trầm của triều Tây Sơn, không ai còn biết số phận vị phò mã tài ba nầy.
Cô Hầu Yã Đố
Cô Hầu tên thật là Yã Đố (nàng Đố) là con gái của một Tù trưởng dân tộc Ba Na tên là Bok Kiơm. Cảm phục tài năng của Vua Trời Nguyễn Nhạc chinh phục được ngựa rừng, Tù trưởng Ba Na gả con gái cho Nguyễn Nhạc để tỏ lòng mến mộ. Khi Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế, Yã Đố được rước về cung phong làm Thứ phi (bà vợ trước của Nguyễn Nhạc là Trần Thị Huệ được phong làm Hoàng hậu).
Khi ba anh em nhà Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa, Cô Hầu đảm nhận trách nhiệm tổ chức, điều hành đồng bào dân tộc thiểu số, chủ yếu là người Ba Na khai khẩn đất hoang vùng rừng Mộ Điểu tạo nên một cánh đồng trù phú rộng gần hai chục mẫu, được gọi là Cánh đồng Cô Hầu. Giữa cánh đồng có một ngọn núi được gọi là núi Hoàng Đế. Cánh đồng này là hậu cứ, nơi sản xuất lương thực, đúc rèn vũ khí, cũng là nơi tập luyện của nghĩa quân Tây Sơn.
Không quen sống cảnh phồn hoa nơi cung cấm, sau một thời gian sống ở hoàng cung, Cô Hầu xin trở về với núi rừng, tiếp tục công việc nương rẫy. Về sau, khi Nguyễn Nhạc qua đời, nhà Tây Sơn sụp đổ, bà Trần Thị Huệ đã đem hai con và đứa cháu nội, con của Thái tử Nguyễn Bảo lên cánh đồng Cô Hậu tá túc, đã được Yã Đố và đồng bào Ba Na hết lòng đùm bọc, cưu mang, che chở.
Trương Văn Hiến
Trương Văn Hiến là người bà con chú bác với Nội Hữu Trương Văn Hạnh, một trong tứ trụ đại thần của Võ vương Nguyễn Phúc Khoát. Sau khi Võ vương bị quyền thần Trương Phúc Loan ám hại, sợ bị truy sát, Trương Văn Hiến trốn vào phương Nam. Đến phủ Quy Nhơn, gặp việc bất bình, ông liền ra tay dùng sào đánh chết bọn cướp, cứu sống thương lái và bảo vệ tài sản của phú thương họ Phạm. Cảm công ơn, Họ Phạm mời Trương Văn Hiến về nhà báo đáp. Trương Văn Hiến chỉ xin dựng một ngôi nhà tranh ở làng An Thái, huyện Tuy Viễn để mở trường dạy học.
Nghe tiếng thầy giáo Hiến, học trò khắp nơi đến xin thọ giáo rất đông, trong đó có ba anh em nhà Tây Sơn và hai anh em Nguyễn Văn Huấn, Nguyễn Văn Danh (sau nầy là hai trong tứ trụ đại thần triều Cảnh Thịnh).Thầy giáo Hiến khuyên ba anh em nhà Tây Sơn đổi họ Hồ thành họ Nguyễn cho ứng với câu sấm ”Phụ nguyên trì thống”.
Nghe theo lời khuyên của thầy giáo Hiến, Nguyễn Nhạc cùng hai em lên vùng Tây Sơn Thượng đạo xây dựng căn cứ, chiêu binh khởi nghĩa. Khi phong trào phát triển, Nguyễn Nhạc mời thầy lên căn cứ điểm binh mã và cho ý kiến chỉ đạo. Trương Văn Hiến khuyên anh em nhà Tây Sơn phát triển lực lượng xuống đồng bằng, phải lấy thương dân, trọng đức để thu phục nhân tâm. Nghĩa quân Tây Sơn kéo xuống Tây Sơn Hạ đạo đặt đại bản doanh. Thầy giáo Hiến làm quân sư cho nghĩa quân đánh chiếm huyện lỵ Tuy Viễn giành thắng lợi. Đang lúc nghĩa quân Tây Sơn chuẩn bị đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn thì thầy giáo Hiến đột tử (1773).
Thầy Trương Văn Hiến là linh hồn, là người gieo mầm, đào tạo lãnh tụ và các danh tướng rường cột của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn.
Nguyễn Văn Huấn
Nguyễn Văn Huấn và Nguyễn Văn Danh là anh em ruột; tổ tiên quê huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An bị chúa Nguyễn bắt vào khai phá vùng hòn Chân Lớn, làng Sại Phong (nay thuộc huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi). Nhà nghèo, có chí lớn, Nguyễn Văn Huấn, Nguyễn Văn Danh vào An Thái, huyện Tuy Viễn theo học thầy giáo Hiến; là bạn đồng môn với ba anh em nhà Tây Sơn.
Do có công lao thời Quang Trung-Nguyễn Huệ nên khi Cảnh Thịnh lên ngôi, Nguyễn Văn Huấn được giao cùng Trần Quang Diệu trấn thủ Nghệ An.
Sau khi dẹp xong quyền thần Bùi Đắc Tuyên (1795), vua Cảnh Thịnh lập tứ trụ đại thần gồm Thiếu Phó Trần Quang Diệu, Thiếu Bảo Nguyễn Văn Huấn, Đại Tư Đồ Vũ Văn Dũng, Đại Tư Mã Nguyễn Văn Danh. Thấy Trần Quang Diệu có uy quyền, Cảnh Thịnh sợ sinh biến, bèn tước hết binh lực của Trần Quang Diệu; quyền lực của triều Cảnh Thịnh nằm trong tay Vũ Văn Dũng và hai anh em Nguyễn Văn Huấn, Nguyến Văn Danh.
Cũng như Nguyễn Văn Danh, Nguyễn Văn Huấn suốt đời trung thành với nhà Tây Sơn và anh dũng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Quang Trung - Nguyễn Huệ
Nguyễn Huệ sinh ngày mùng 5 tháng 5 năm Quý Dậu-1753. Ông còn có tên là Thơm, Bình, là học trò xuất sắc của thầy giáo Hiến, được thầy tận tình truyền dạy võ công và binh pháp.
Nguyễn Huệ là người có tầm nhìn chiến lược, rất tài ba trong việc chỉ huy trận mạc. Ông có công rất lớn trong phong trào khởi nghĩa Tây Sơn, đặc biệt là trong sự nghiệp đánh thắng giặc ngoại xâm.
Trong buổi đầu xây dựng căn cứ Tây Sơn Thượng đạo, Nguyễn Huệ có công lớn trong việc luyện quân, nhất là đội quân người Ba Na. Năm 1773, Nguyễn Huệ tham gia đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn. Năm 1776, Nguyễn Huệ vào đánh Phú Yên, giành thắng lợi hoàn toàn. Trực tiếp cầm quân Tây Sơn đánh thắng quân Nguyễn Ánh nhiều trận ở Gia Định, uy danh của Nguyễn Huệ rất lẫy lừng. Vang dội nhất, oanh liệt nhất là chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút (1785) tiêu diệt 5 vạn quân Xiêm xâm lược, giải phóng hoàn toàn đất phương nam. Từ 1786-1788, Nguyễn Huệ mang quân ra đánh Phú Xuân, tiêu diệt đầu não quân Trịnh, giải phóng hoàn toàn Phú Xuân, rồi tiến ra Thăng Long giương cờ “Phò Lê, diệt Trịnh”, lật đổ ách thống trị của họ Trịnh ở Đàng Ngoài, lập lại nền thống nhất nước nhà. Năm 1789, khi hay tin quân Thanh xâm lược nước ta, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung, liền sau đó tiến quân ra Thăng Long lập nên kỳ tích vẻ vang: quét sạch 29 vạn quân Mãn Thanh xâm lược ra khỏi đất nước vào ngày mùng Năm Tết Kỷ Dậu, 1789.
Chính sách trọng dụng hiền tài của Nguyễn Huệ đã thu hút nhiều nhà khoa bảng thực tài, nhiều danh quan như Ngô Thời Nhậm, Nguyễn Hữu Chỉnh ra giúp nước. Nhờ có chính sách cải cách tiến bộ, nên nước ta dưới thời vua Quang Trung đã có những chuyển biến tích cực về kinh tế, văn hoá, xã hội, nổi lên là chính sách trọng dụng chữ nôm.
Vua Quang Trung có bà hoàng hậu Phạm Thị Liên, quê phủ Quy Nhơn sinh 3 người con trai là Quang Toản, Quang Bàn, Quang Thiện và 2 người con gái. Công chúa Ngọc Hân lấy Nguyễn Huệ sinh được một trai tên là Nguyễn Văn Đức và một gái là Nguyễn Thị Ngọc, Công chúa Ngọc Hân từ trần năm 1789 tại Huế; hai con của bà bị Nguyễn Ánh bắt giết năm 1801 tại Phú Xuân.
Lê Văn Hưng
Ông người huyện Tuy Viễn nay là huyện Tây Sơn. Ông rất giỏi võ, có đường roi tuyệt diệu. Tuy xuất thân là tướng cướp, nhưng ông chỉ cướp của bọn nhà giàu, không phá phách nhân dân; tính tình ông khoan hậu nên được nhiều người quý mến.
Lê Văn Hưng tham gia phong trào Tây Sơn từ đầu, được anh em Nhạc, Huệ, Lữ tin dùng. Lê Văn Hưng và Võ Đình Tú được anh em nhà Tây Sơn xem như người nhà.
Lê Văn Hưng có công lớn trong việc đánh giữ vùng Diên Khánh, 3 năm cầm chân quân Nguyễn. Lê Văn Hưng trí dũng, đánh giặc giỏi nên nghe tin Hưng cầm quân là Nguyễn Ánh rất hoảng sợ, coi Hưng là vô địch.
Thời Cảnh Thịnh, Lê Văn Hưng là một trọng thần, quyền thế rất uy.
Do những lời gièm pha, nghi ngờ chuyên quyền, nên Lê Văn Hưng bị Cảnh Thịnh ra lệnh giết.
Thương gia Huyền Khê
Huyền Khê là một thương gia ở Thị Nại, tham gia khởi nghĩa Tây Sơn từ đầu, được phong làm Đệ tam Trại chủ coi việc binh lương của nghĩa quân Tây Sơn.
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Thung, Huyền Khê là Bộ chỉ huy phong trào Tây Sơn năm 1773 làm nên chiến thắng vang dội, đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn, tạo thế và đà vô cùng thuận lợi để nghĩa quân giành quyền làm chủ hoàn toàn phủ Quy Nhơn và phát triển ra các vùng Quảng Ngãi, Quảng Nam, vào Phú Yên, Diên Khánh.
Tù trưởng Bok Kiơm
Bok Kiơm là thủ lĩnh của dân tộc Ba Na. Ông khôi ngô, thông minh, tự nhận mình là dòng dõi nhà trời cai quản các dân tộc Xê đăng và Ba Na Ông là người có uy tín và quyền lực rất lớn đối với các dân tộc ở miền tây phủ Quy Nhơn. Khi Tây Sơn khởi nghĩa, Bok Kiơm chưa tin nên chưa đi theo. Nhưng đến khi Nguyễn Nhạc chinh phục được bầy ngựa rừng thì ông hăng hái cầm đầu đồng bào các dân tộc thiểu số gia nhập nghĩa quân Tây Sơn và đem con gái tên là Yã Đố gả cho Nguyễn Nhạc..
Bok Kiơm đã giúp nhà Tây Sơn thu phục các dân tộc ít người, tổ chức hai đội quân người Thượng thiện chiến cung nỏ, giáo mác. Trong trận đánh phủ thành Quy Nhơn năm 1773, Bok Kiơm chỉ huy cánh quân đồng bào Thượng mai phục ở hào thành. Nửa đêm nghe pháo lệnh, Bok Kiơm dẫn đầu binh sĩ xông lên phá cửa, chiếm thành.
Khi Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế, Bok Kiơm xin không nhận chức phong mà bày tỏ nguyện vọng được về cai quản núi rừng. Quý trọng tài năng và đức độ của Bok Kiơm, vua Thái Đức tặng thưởng ông một con ngựa chiến, một roi mây bịt vàng, một ngọn giáo bằng bạc và giao trấn giữ vùng An Khê. Hàng năm Bok Kiơm được nhà vua cung cấp muối và cá khô để ban phát cho đồng bào các dân tộc miền núi.
Ngày nay, người Ba Na , người Gia Rai đều rất tự hào rằng mình là con cháu của Bok Kiơm
Nữ tướng Trần Thị Lan
Trần Thị Lan là em ruột của Trần Thị Huệ (vợ Nguyễn Nhạc), cháu của Võ sư Trần Kim Hùng quê làng Tường Định, huyện Tuy Viễn. Trần Kim Hùng là sư phụ của Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết.
Thuở nhỏ Trần Thị Lan được ông nội truyền dạy võ nghệ, bà rất giỏi về kiếm thuật và luyện người uyển chuyển như chim én nên được ông nội yêu quý.
Sau khi gặp Nguyễn Văn Tuyết ở chợ Gò Chàm, võ sư Trần Kim Hùng cùng Tuyết lên đường vào đất Tây Sơn và truyền nghiệp võ công cho Nguyễn Văn Tuyết. Sau đó, võ sư gả cháu Trần Thị Lan cho đệ tử làm vợ.
Trần Thị Lan cùng chồng theo phò tá nhà Tây Sơn. Trần Thị Lan là một nữ tướng nổi tiếng trong nhóm “Ngũ Phụng thư”, gồm Bùi Thị Xuân, Bùi Thị Nhạn, Trần Thị Lan, Nguyễn Thị Dung, Huỳnh Thị Cúc, trong đó Bùi Thị Xuân được tôn làm thầy.
Dưới triều Tây Sơn, Trần Thị Lan là một trợ thủ đắc lực, cùng chồng lập nhiều chiến công hiển hách. Năm 1802, Nguyễn Văn Tuyết cùng vợ là Trần Thị Lan phò giá vua Quang Toản ra Bắc thì bị tướng quân Lê Chất của Gia Long bắn chết. Trần Thị Lan bị bắt, bà đã dùng gươm tự sát.
Nội Hầu Phan Văn Lân
Phan Văn Lân cũng theo học thầy giáo Hiến. Ông rất giỏi võ nghệ, tham gia khởi nghĩa Tây Sơn từ buổi đâu. Năm 1778, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế, ông được phong làm Nội Hầu.
Trong đợt ra đánh Phú Xuân và Thăng Long năm 1786, Phan Văn Lân là một trợ tướng đắc lực được Nguyễn Huệ tin dùng. Năm 1787, khi giao Bắc Hà cho Vũ Văn Nhậm cai quản, Nguyễn Huệ dặn Ngô Văn Sở và PhanVăn Lân “Phải xem xét hắn, cũng như lửa vậy, dập tắt lúc mới nhen nhóm thì sức dễ làm”. Sau khi giết Vũ Văn Nhậm làm phản, giao Bắc Hà lại cho Đại Tư Mã Ngô Văn Sở và Nội Hầu Phan Văn Lân, Nguyễn Huệ nói với các tướng lĩnh rằng “Sở và Lân là nanh vuốt của ta“.
Tháng 11.1788, quân Thanh ào ạt kéo sang xâm lược nước ta. Ngô Văn Sở, Ngô Thời Nhậm đề nghị cho lui quân, Phan Văn Lân không chấp nhận. Ông tự mình chỉ huy một cánh quân tiến lên miệt sông Nguyệt Đức, đang đêm giá rét vượt sông đánh quân Thanh đang đóng ở núi Tam Tầng. Quân Tây Sơn bị thua trận, Phan Văn Lân vội vã thu quân về.
Khi vua Quang Trung ra Tam Điệp, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân cuối đầu xin chịu tội. Vua Quang Trung tha tội và giao cho Đại Tư Mã Ngô Văn Sở và Nội Hầu Phan Văn Lân làm tướng tiên phong chỉ huy tiền quân đánh quân Thanh. Quân Thanh rất sợ Phan Văn Lân, gọi ông là “Phi tướng quân“ (Tướng trời bay xuống).
Phan Văn Lân trí dũng, đánh giặc giỏi, được vua ban thưởng thứ gì thì đem khao quân. Ra trận, Nội Hầu Lân hiệu binh rất nghiêm, cùng tướng sĩ đồng cam, cộng khổ, gặp địch thì xông ra trận trước, thắng trận thì quy công cho kẻ dưới. Vì vậy, ông được người người mến mộ, tin yêu, hết lòng phò tá. Danh tiếng ông lừng lẫy.
Đô đốc Đặng Văn Long
Đặng Văn Long quê huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn. Lúc nhỏ, ông rất thông minh, học võ thông thạo môn ngạnh quyền (võ cứng). Sau ông theo học thầy Trương Văn Hiến môn miên quyền (võ mềm dẻo như bông). Học 5 năm thành tài, Đặng Văn Long tinh thông cả hai môn võ cứng và võ mềm, vô địch trong thiên hạ. Giới võ lâm suy tôn Long là Đặng vô địch. Long nhẹ nhàng, nhanh nhẹn như vượn, có cánh tay khoẻ, chắc, đỡ được cả chiếc xe nặng hàng tạ; về già mà ông vẫn tráng kiện như thanh niên.
Đặng Văn Long được nhà Tây Sơn phong làm Đô đốc, đã cùng nghĩa quân Tây Sơn đánh nam, dẹp bắc giành thắng lợi vang dội. Trong trận quyết chiến chống quân xâm lược Thanh, Đô đốc Nguyễn Văn Long chỉ huy đạo quân đánh thẳng vào thành Thăng Long. Để có một chiến thắng ngoạn mục, Đặng Văn Long ra trận mặc áo trắng, tay cầm kích, lưng đeo cung, hét to xông vào đánh quân địch. Quân Thanh kinh hồn bỏ chạy, Sầm Nghi Đống không kịp mặc áo giáp và đóng yên ngựa, vội vàng tháo chạy trước. Sau chiến thắng nầy, Đặng Văn Long được Nguyễn Huệ tuyên dương là Bạch y Tướng quân, ban cho 2 con ngựa chiến và 40 xấp lụa.
Dưới thời Cảnh Thịnh, Đặng Văn Long giúp Ngô Văn Sở trấn giữ Bắc Thành, có công trấn áp các cuộc chống phá của phe phái triều Lê đã sụp đổ. Lúc chết, Đô đốc Đặng Văn Long được ban thuỵ hiệu là Trung Tráng.
Đô đốc Nguyễn Văn Lộc.
Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết, Vũ Đình Tú, Lê Văn Hưng được anh em Tây Sơn coi như chân tay. Nguyễn Văn Lộc người làng Kỳ Sơn, huyện Tuy Viễn, nay là xã Phước Sơn, huyện Tuy Phước. Ông là con nhà nghèo, thuở nhỏ phải đi ở chăn trâu cho nhà giàu. Ông cường tráng, lanh lợi, được một dị nhân bí mật truyền dạy các môn võ nên không ai biết tài năng. Một hôm đi chơi về khuya, Lộc bị quân canh bắt trói vào cột đình. Thừa lúc bọn lính canh uống rượu say, Lộc lấy mảnh sành lén cắt dây trói, chạy trốn. Quân canh đuổi theo đều bị Lộc đánh ngã, không gượng dậy được. Lộc chạy băng qua cánh đồng lúa chín, bị hô hoán là kẻ cắt trộm lúa, thanh niên trai tráng vây đánh Lộc, nhưng tất cả đều bị Lộc đánh ngã. Từ đó, người Tuy Viễn mới biết Nguyễn Văn Lộc có võ nghệ cao cường.
Nghe tin Tây Sơn khởi nghĩa, Nguyễn Văn Lộc đến xin gia nhập nghĩa quân và trở thành cận tướng của nhà Tây Sơn, lập nhiều chiến công hiển hách.
Năm 1776, Nguyễn Văn Lộc chỉ huy quân Tây Sơn đánh bại đạo quân Ngũ Sinh của Tống Phước Hạp ở phía nam. Ông cũng đã nhiều lần theo Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đánh quân Nguyễn ở Gia Định.
Năm 1786, ông theo Nguyễn Huệ đánh bại quân Trịnh ở Phú Xuân do Phạm Ngô Cầu chỉ huy. Sau ông được cử làm Trấn Tướng ở Thanh Hoá.
Năm 1800, Nguyễn Văn Lộc chỉ huy 8.000 quân đánh tan quân Nguyễn ở Ký Sơn (nay thuộc xã Phước Sơn, huyện Tuy Phước) do Võ Tánh chỉ huy; phục binh đánh quân Nguyễn thua đau nhiều trận.
Trong chiến dịch Xuân Kỷ Dậu 1789, Đô đốc Nguyễn Văn Lộc được vua Quang Trung giao cầm đầu đội quân thuỷ, tiến ra cửa Thái Bình rồi đổ bộ, cho quân chặn viện và truy quét quân Thanh thất bại tại Thăng Long trốn về nước. Đô đốc Lộc phát hiện trong số tàn binh chạy trốn có Tôn Sĩ Nghị, nhưng không bắt sống được.
Với những chiến công vang dội, Đô đốc Nguyễn Văn Lộc được suy tôn là Danh tướng hàng đầu của nhà Tây Sơn.
Đông Định vương Nguyễn Lữ
Nguyễn Lữ theo đạo Hồi-Stlam nên được gọi là thầy Tư Lữ, còn được gọi là đức ông Bảy.
Tham gia khởi nghĩa, lúc đầu Nguyễn Lữ trực tiếp phụ trách hậu cần. Năm 1776, lần đầu tiên ông cầm quân vào Gia Định đánh thắng quân Đông Sơn do Đỗ Thành Nhân cầm đầu; Nguyễn Lữ được thăng làm Thiếu Phó. Sau khi bình được Gia Định, ông rút quân về Quy Nhơn. Năm Mậu Tuất, 1778, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế, Nguyễn Lữ được phong làm Tiết chế Đông Định vương coi đất Gia Định.
Nguyễn Lữ là một võ tướng đồng thời là một giáo chủ đạo Chàm Bà Ni (Hồi giáo). Ông để lại cho đời sau bài Hùng kê quyền nổi tiếng.
Thượng thư Lê Công Miễn
Lê Công Miễn sinh năm 1740, quê làng Phú Nhơn, huyện Tuy Viễn, nay là thôn Luật Chánh, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước. Lê Công Miễn thuộc dòng dõi Lê Công Triều quê huyện Kỳ Hoa (nay là huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh) theo chúa Nguyễn vào Thuận Quảng từ thế kỷ XVI.
Năm 16 tuổi Lê Công Miễn ra Phú Xuân theo học thầy Trịnh Quang. Sau ông xin ngụ tại nhà viên Thái giám Liêu Thẩm Hầu Nguyễn Quang Vinh. Quan Thái giám rất chuộng văn chương, trong nhà ông có đủ các loại thư sách. Vốn sáng ý, thông minh nên chẳng bao lâu Lê Công Miễn nổi tiếng học rộng, biết nhiều xuất chúng ở đất đô thành. Gia phả họ Lê ghi rằng “Sức học và văn chương khó người địch nổi, kinh điển lại càng uyên bác”.
Năm 1775, quân Trịnh chiếm Phú Xuân, ông lánh về Tiên Tĩnh, Dương Xuân, mở trường dạy học. Nghe tiếng ông, chính quyền Lê-Trịnh cho người mời ông ra làm quan, nhưng ông từ chối, lén trốn về quê nhà.
Năm 1778, vua Thái Đức Nguyễn Nhạc cho sứ giả mang lễ vật đến mời ông ra tham chính. Năm 1784, Lê Công Miễn đến thành Hoàng Đế ra mắt vua Thái Đức. Ông được vua giao làm Hàn Lâm viện Thị độc rồi Thị Lang bộ Lễ và được giao nhiệm vụ “mật trực thụ thư”, hằng ngày vào trong mật thất giảng sách cho vua học. Với tư cách quân sư của Hoàng đế, ông đã tích cực giúp vua sửa sang việc triều chính.
Năm 1795, vua Cảnh Thịnh mời Lê Công Miễn về kinh đô Phú Xuân, bổ nhiệm làm Đô Ngự sử phụ trách viện Đô Sát và làm thầy dạy nhà vua học ở Viện Kinh Diên. Năm 1796, Lê Công Miễn được bổ làm Thượng thư bộ Hình.
Vâng mệnh vua Cảnh Thịnh, ông tham khảo bộ luật Hồng Đức đời Lê và luật nhà Thanh Trung Quốc, biên soạn bộ Hình thư của triều Tây Sơn. Bộ luật Hình thư biên soạn xong chưa kịp thi hành thì ông lâm bệnh chết (1800) và sau đó nhà Tây Sơn sụp đổ nên bộ luật bị thất truyền.
Là người học rộng, biết nhiều, làm quân sư dạy học cho vua Thái Đức và vua Cảnh Thịnh, giữ chức Thượng thư bộ Hình triều Tây Sơn, có lòng trung nghĩa, nên sau khi tạ thế, Thượng thư Lê Công Miễn được vua Cảnh Thịnh ban tên thuỵ là Cung Giản. Thi hài ông lúc đầu chôn ở Tiên Tĩnh, Dương Xuân, Huế, sau cải táng đưa về quê nhà ở huyện Tuy Viễn.
Đô đốc Lý Văn Mưu
Lý Văn Mưu còn có tên là Lý Văn Bưu, người thôn Đại Khoan, huyện Phù Ly (nay là huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định). Thời trai trẻ, Lý Văn Mưu nổi tiếng phóng lao, bắn cung, đặc biệt là phi ngựa, nên ông có biệt danh là “ Phi vân báo ”(con báo bay trong mây). Ông có tài luyện ngựa chiến. Bùi Thị Xuân thường đến ông học võ và trở nên thân quen. Được Bùi Thị Xuân giới thiệu, Lý Văn Mưu tham gia khởi nghĩa Tây Sơn ngay từ đầu và được giao nhiệm vụ chăm lo hậu cần, trông coi việc chăn nuôi và luyện tập đoàn chiến mã và kỵ binh ở Tây Sơn Hạ.
Đô đốc Lý Văn Mưu đã lập nhiều chiến công oanh liệt trong các trận đánh quân Nguyễn và quân Trịnh. Trong cuộc kháng chiến chống quân Thanh, Đô đốc Mưu chỉ huy Hữu quân, phụ trách Đội tượng binh và kỵ binh. Lý Văn Mưu cho quân bọc lên phía tây, qua ngả Chương Đức rồi tiến thẳng đến Nhơn Mục, huyện Thanh Trì, phối hợp với đội quân của Đô đốc Đông, Đô đốc Long đánh vào sở chỉ huy của Sầm Nghi Đống ở Khương Thượng. Đô đốc Mưu đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần đánh bại quân Thanh xâm lược vào đầu xuân Kỷ Dậu, 1789.
Đô đốc Lý Văn Mưu rất được vua Quang Trung tin dùng, được các tướng sĩ nhà Tây Sơn mến phục.
Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc
Ba anh em nhà Tây Sơn là con ông Hồ Phi Phúc và bà Phạm Thị Đồng, sinh ở Tây Sơn Nhì, ấp Kiên Thành (nay thuộc xã Bình Thành, huyện Tây Sơn). Ông tổ bồn đời của Hồ Phi Phúc quê làng Thái Lạc, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An bị chúa Nguyễn lùa vào nam đưa đi khai hoang lập ấp tại Tây Sơn Nhất, (nay là thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai), sau dời xuống Tây Sơn Nhì. Theo lời khuyên của thầy giáo Hiến, ba anh em nhà Tây Sơn đổi họ Hồ thành họ Nguyễn cho ứng với câu sấm “Phụ nguyên trì thống” (họ Nguyễn đại thống thiên hạ: chữ phụ ghép với chữ nguyên thành Nguyễn).
Nguyễn Nhạc sinh năm nào chưa rõ. Ông là học trò của thầy Trương Văn Hiến. Ông làm nghề buôn trầu giao dịch với các tầng lớp nông, thương trên nguồn, dưới biển. Ông được giao chức Biện lại ở Vân Đồn đi thu thuế cho chúa Nguyễn nên có điều kiện chiếm đoạt tiền thuế làm tài chính cho cuộc khởi nghĩa nổ ra vào năm 1771. Nguyễn Nhạc có tài thuyết phục, vận động các tầng lớp nhân dân, chiêu tập hiền tài tham gia cuộc khởi nghĩa gồm nông dân nghèo, phú hào, phú thương, các nhà nho, người Hoa, đồng bào các dân tộc Ba Na, Xê Đăng, Chăm.
Sau khi xây dựng căn cứ, giương cờ khởi nghĩa ở Tây Sơn Thượng đạo (năm 1771), Nguyễn Nhạc cho nghĩa quân xuống Tây Sơn Hạ đạo đóng đại bản doanh. Năm 1773, ông lập mưu tự mình ngồi vào cũi đem nộp cho quan phủ thành. Nhân địch sơ hở, Nguyễn Nhạc đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn. Năm 1776, Nguyễn Nhạc xưng Tây Sơn vương đóng đại bản doanh tại thành Đồ Bàn. Năm 1778, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế, cho cải tạo, nâng cấp thành Đồ Bàn, đổi tên là thành Hoàng Đế; phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình vương trấn giữ Phú Xuân, Nguyễn Lữ làm Đông Định vương trấn giữ Gia Định.
Sau khi lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Thái Đức, Nguyễn Nhạc cùng hai em và các tướng sĩ Tây Sơn liên tiếp đánh bại quân Nguyễn ở phương Nam, đập tan quân Trịnh ở phương Bắc, xoá bỏ nạn Trịnh Nguyễn cát cứ kéo dài gần 300 năm. Nhưng về sau, trong 3 năm 1791,1792,1793, quân Tây Sơn đóng ở thành Hoàng Đế liên tiếp thua to trước quân Nguyễn Ánh. Thế cùng, Nguyễn Nhạc cho người ra Phú Xuân cầu cứu. Vua Cảnh Thịnh (Thái tử Quang Toản nối ngôi Quang Trung) cho quân vào giúp. Quân Nguyễn rút khỏi Quy Nhơn. Các tướng của Cảnh Thịnh vào thành Hoàng Đế niêm phong kho tàng, tịch biên tài sản, Nguyễn Nhạc tức hộc máu mà chết (1793). Thái tử Nguyễn Bảo, con Nguyễn Nhạc bị Cảnh Thịnh phế truất làm Tiểu triều, cho ăn lộc một huyện Phù Ly.
Nguyễn Nhạc có bà vợ cả là Trần Thị Huệ được phong làm Hoàng hậu và bà vợ người Ba Na tên là Yã Đố, còn gọi là Cô Hầu được phong làm Thứ phi có công xây dựng hậu cần cho nghĩa quân. Ba con trai của Nguyễn Nhạc đều bị Gia Long bắt giết vào năm 1802. Năm 1831, Minh Mạng cho quân truy bắt hai người con còn lại và đứa cháu nội của vua Thái Đức, đem chém ngang lưng.
Tiết Chế Vũ Văn Nhậm
Vũ Văn Nhậm quê Quảng Nam, giỏi võ nghệ, sức khoẻ sung mãn, tính phóng khoáng, ngang tàng. Ông sung quân ở dinh Quảng Nam. Nhưng vì kiêu căng, coi thường cấp trên bất tài, lại hay uống rượu nên Nhậm bị thải hồi. Nhậm buồn bực đi vào phủ Quy Nhơn để tìm cơ hội lập nghiệp. Trên đường, Nhậm gặp một tên thổ hào ác bá, cưỡng hiếp con gái chưa chồng, ông tung gươm chém chết. Nhậm định ra thú tội ở cửa quan thì tình cờ gặp Trần Quang Diệu đưa đến gặp Nguyễn Nhạc. Nhậm phục thiện và dốc lòng phò giúp anh em nhà Tây Sơn. Ông rất giỏi võ và bắn cung, được Nguyễn Nhạc yêu quý, gả con gái và phong chức Tả quân Đô đốc.
Trong trận đánh Phú Xuân-Thuận Hoá năm 1786, Tả quân Đô đốc Vũ Văn Nhậm được Nguyễn Huệ giao chỉ huy đội quân thuỷ, tiến thẳng ra sông Gianh, đổ bộ lên đất Quảng Bình tiêu diệt các căn cứ quân sự của quân Trịnh. Sau đó, Nguyễn Huệ tiếp tục cử Nhậm ra Thăng Long đánh quân Trịnh.
Năm 1787, Vũ Văn Nhậm được Nguyễn Huệ cử ra Thăng Long giết Nguyễn Hữu Chỉnh làm phản. Vua Lê Chiêu Thống bỏ trốn khỏi kinh thành. Nhà Tây Sơn giao Vũ Văn Nhậm trấn giữ 11 trấn Bắc Hà với chức Tiết chế
Do nghi ngờ Vũ Văn Nhậm có biểu hiện lộng quyền, mưu phản, tháng 5.1788, Nguyễn Huệ đưa quân ra Thăng Long bắt giết Vũ Văn Nhậm và giao Bắc Hà cho Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân trấn giữ.
Ông Chảng ngang thiên Đinh Văn Nhưng
Đinh Văn Nhưng tên thường gọi là ông Chảng ngang thiên. Ông quê làng Thanh Liêm, xã Nhơn Ân, huyện An Nhơn, về sau đến ở làng Bàng Châu, thị trấn Đập Đá.
Đinh Văn Nhưng nhà nghèo, lúc nhỏ phải tự lập. Ông giỏi võ, tính ngang tàng, không chịu luồn cúi ai. Nhờ có chí lớn, ông ra sức khai hoang, lập làng ở Thanh Liêm, chẳng bao lâu trở nên giàu có, trong nhà có nhiều người giúp việc.
Ông nổi tiếng là một võ sư có tầm nhìn xa, trông rộng. Nghe tiếng ông, trước lúc khởi nghĩa, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đến xin học võ. Ông nhận hai anh em Nhạc, Huệ làm con nuôi, chăm sóc, dạy dỗ chu đáo, tận tình. Lúc Tây Sơn dấy binh khởi nghĩa, Đinh Văn Nhưng cho ngựa chở thóc, gạo, bắp, mè...lên căn cứ Tây Sơn ủng hộ nghĩa quân.
Năm 1778, sau khi lên ngôi Hoàng đế, vua Thái Đức Nguyễn Nhạc ban tước Sanh Sơn Bá và cấp sắc phong cho Đinh Văn Nhưng.
Dược mời vào triều, ông vẫn tính ngang tàng, không chịu khép mình vào những quy tắc triều đình. Về nhà, nhân dân tụ hội chúc mừng ông và hỏi về việc nhậm chức, Đinh Văn Nhưng trả lời: “Bồng bềnh chi tướng, Uýnh ướng chi quan, Bộn bàng chi chức, Chảng chảng ngang thiên”. Vì thế Đinh Văn Nhưng được người đời gọi là ông “chảng ngang thiên”, và trong dân gian ai ngang bướng thì được gọi “ngang như ông Chảng”.
Tương truyền, mỗi lần vào kinh hầu triều, ông ngồi trên một cái ghế thang có 4 người khiêng, có hai cây đu đủ thay hai cái lọng, có vài chục người theo hầu cầm cuốc, cào cỏ, cuốc chĩa, thang.... Khi ra vào kinh thành, đám người tuỳ tùng dùng miệng làm trống kèn tạo âm thanh tưng bừng, rộn rịp, khiến mọi người đổ xô ra xem như ngày hội.
Khi nhà Nguyễn thắng thế, sợ con cháu bị trả thù, ông cho đổi họ Đinh thành họ Đào, và khi ông chết cũng được lập 5-7 mộ phần vì sợ bị khai quật trả thù. Cho nên về sau, con cháu ông không thể biết mộ phần đích thực của ông và lấy rằm tháng Năm âm lịch làm ngày giỗ kỵ Đinh Văn Nhưng.
Thái Phó Đặng Xuân Phong
Ông quê huyện Tuy Viễn nay là huyện Tây Sơn, là người khí tiết, mưu lược, giỏi cưỡi ngựa, bắn cung; khi ra trận thường cưỡi ngựa màu đen, tay cầm cây côn bằng đồng.
Sau chiến thắng quân Trịnh, Đặng Xuân Phong được Nguyễn Huệ giao chức vụ Kinh lược An Phủ sứ Thuận Hoá.
Dưới thời Cảnh Thịnh, Đặng Xuân Phong làm Tả quân Đô Đốc, rồi làm Tuyên Phủ sứ Quy Nhơn kiêm chức Chiêu Thảo sứ Phú Yên và Diên Khánh.
Năm 1795, Đặng Xuân Phong được phong chức Thái Phó.
Đặng Xuân Phong lấy em gái Bùi Đắc Tuyên, nhưng không vì thế mà ông xu nịnh kẻ quyền thần. Ông luôn sát cánh cùng quân sĩ chiến đấu không nề ác liệt, hiểm nguy và đồng cam cộng khổ với binh sĩ. Đặng Xuân Phong lập được nhiều chiến công vang dội, đánh đâu thắng đó nên quân sĩ gọi ông là “Huy tiệp Tướng quân”(Tướng quân luôn thắng trận). Quân Nguyễn rất sợ Đặng Xuân Phong.
Đại Tư Mã Ngô Văn Sở
Ngô Văn Sở tham gia khởi nghĩa Tây Sơn từ đầu, là đệ nhất công thần, nhưng chưa có sử liệu nào viết về quê quán, gia thế, công lao, cái chết, hậu duệ của vị Đại Tư Mã tài ba nầy.
Trong phong trào Tây Sơn, Ngô Văn Sở là vị tướng lĩnh tài ba, lập nhiều công lao to lớn trong việc đánh quân Nguyễn ở phương nam, đánh quân Trịnh ở phía bắc. Là thuộc tướng của Vũ Văn Nhậm, sau khi Nhậm bị Nguyễn Huệ giết, Ngô Văn Sở được giao trọng trách trông coi 11 trấn Bắc Hà, Thăng Long. Phụ tá cho ông có Nội Hầu Phan Văn Lân, Chưởng Phủ Nguyễn Văn Dụng, Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, Hộ Bộ Trần Thuận Ngôn, Học Sĩ Ngô Thời Nhậm. Nguyễn Huệ nói rằng “Sở và Lân là nanh vuốt của ta. Dụng và Ngôn là lòng dạ của ta. Nhậm là bề tôi mới của ta. Nay ta lấy cái việc quân vụ và quốc chính của 11 trấn Bắc Hà mà uỷ thác cho...”
Cuối năm 1788, vua Càn Long nhà Thanh cử 29 vạn quân do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy kéo sang xâm lược nước ta. Trước binh lực hùng hậu của giặc Thanh, Ngô Văn Sở cho đánh cầm chân địch rồi rút quân về giữ phòng tuyến Tam Điệp (Ninh Bình), cử Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết về Phú Xuân cấp báo cho Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ đánh giá rất cao “Nước cờ Tam Điệp” của Ngô Văn Sở. Trong trận quyết chiến chống giặc Thanh, xuân Kỷ Dậu 1789, Ngô Văn Sở được vua Quang Trung cử làm tướng tiên phong, ông đã góp phần to lớn vào chiến thắng vang dội Ngọc Hồi-Đống Đa.
Năm 1790, Ngô Văn Sở được vua Quang Trung giao cầm đầu Sứ đoàn đưa Phạm Văn Trị (giả vua Quang Trung) sang Yên Kinh mừng thọ vua Càn Long tròn 80 tuổi, được nhà vua đón tiếp hết sức nồng hậu. Về nước, Ngô Văn Sở tiếp tục được giao nhiệm vụ phụ trách 11 trấn Bắc Thành cho đến đời vua Cảnh Thịnh.
Năm 1795, trong vụ biến ở kinh đô Phú Xuân, sau khi trừ được quyền thần Bùi Đắc Tuyên, Vũ Văn Dũng làm giả Chiếu lệnh của Tiết Chế Nguyễn Quang Thuỳ cho người bắt Ngô Văn Sở đóng cùm đưa về kinh, sau đó sai người vào Quy Nhơn bắt Bùi Đắc Trụ, con của Bùi Đắc Tuyên, Cả Ngô Văn Sở và Bùi Đắc Trụ đều bị ghép vào tội phản nghịch và bị dìm nước chết.
Đó là cái chết oan nghiệt, thê thảm của Đệ nhất công thần nhà Tây Sơn, Đại Tư Mã Ngô Văn Sở, do các phe cánh thanh trừng lẫn nhau thời Cảnh Thịnh gây nên.
Phú hộ Nguyễn Thung
Nguyễn Thung, Huyền Khê là hai nhân vật chủ chốt tham gia khởi nghĩa Tây Sơn từ đầu.
Nguyễn Thung là một phú nông, quê huyện Tuy Viên. Ông thông thuộc kinh sử, tính cách nhân hậu, hào phóng, nên được mọi người quý mến. Sau khi lực lượng nghĩa quân Tây Sơn phát triển xuống vùng Hạ đạo, lấy Kiên Thành làm sở chỉ huy, Nguyễn Nhạc xưng Đệ nhất Trại chủ cai quản Phù Ly, Bồng Sơn, Nguyễn Thung được phong làm Đệ nhị Trại chủ cai quản huyện Tuy Viễn.
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Thung, Huyền Khê là Bộ chỉ huy Tây Sơn năm 1773 làm nên chiến thắng vang dội đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn, tạo thế và đà vô cùng thuận lợi để nghĩa quân giành quyền làm chủ hoàn toàn phủ Quy Nhơn và phát triển ra các vùng Quảng Ngãi, Quảng Nam, Phú Yên, Diên Khánh.
Tham Tri Võ Đình Tú
Võ Đình Tú quê Phú Phong, cùng tuổi và là đồng hương của Vũ Văn Dũng. Ông là con nhà giàu có, tính hào phóng, thông minh và can đảm. Lúc còn nhỏ, ông được một nhà sư truyền dạy võ nghệ hơn 10 năm, đến năm 25 tuổi thì ông thành tài. Ông ở nhà đọc sách và chỉ giao du với Vũ Văn Dũng.
Được Vũ Văn Dũng giới thiệu, Võ Đình Tú tham gia khởi nghĩa Tây Sơn từ buổi đầu. Do giỏi võ nghệ, thông binh pháp nên Võ Đình Tú được Nguyễn Huệ quý mến, thường cùng Võ Đình Tú bàn chuyện binh thư. Nguyễn Huệ nói với các tướng lĩnh “Đình Tú có tài văn, võ, ngày sau sẽ là bầy tôi rường cột”. Bùi Thị Xuân cho thêu bốn chữ vàng “Thiết côn vô địch” trên lá cờ của Võ Đình Tú. Anh em nhà Tây Sơn coi Võ Đình Tú như người nhà.
Triều Thái Đức, Võ Đình Tú giữ chức Chủ Sự bộ Binh, thời Cảnh Thịnh, ông được thăng chức Tham Tri bộ Binh, phụ trách hai phủ Quy Nhơn và Phú Yên.
Năm 1799, khi quân Nguyễn tấn công phủ thành Quy Nhơn, Võ Đình Tú cầm quân giáng trả, bị trúng tên độc chết; các tướng sĩ vô cùng thương tiếc..
Thái Sư Bùi Đắc Tuyên
Bùi Đắc Tuyên còn có tên là Bùi Đắc Kế . Ông quê làng Xuân Hoà, xã Bình Phú, huyện Bình Khê. Nữ tướng Bùi Thị Xuân là cháu gái ông.
Ông là Thái Sư, một đại thần của triều Tây Sơn, có nhiều công lao trong việc triều chính.
Sau khi vua Quang Trung băng hà, Bùi Đắc Tuyên nắm giữ toàn bộ binh quyền. Vì ông chuyên quyền, độc đoán nên tướng lĩnh Tây Sơn rất bất bình.
Năm Ất Mão, 1795, Bùi Đắc Tuyên sai Ngô Văn Sở ra Bắc Hà thay Võ Văn Dũng. Trên đường về Phú Xuân, đến trạm Hán Xuyên, Võ Văn Dũng gặp Trần Văn Kỷ đang bị lưu đày tại đây. Trần Văn Kỷ xúi Võ Văn Dũng nên giết Bùi Đắc Tuyên để diệt trừ hiểm hoạ sau nầy.
Võ Văn Dũng, Phạm Công Hưng, Nguyễn Văn Huấn đồng mưu với nhau, đang đêm kéo quân đến vây nhà Bùi Đắc Tuyên và đem giết ông. Sau đó, Nguyễn Văn Huấn đem quân vào Quy Nhơn bắt Bùi Đắc Trụ, con Bùi Đắc Tuyên, đem dìm xuống nước cho chết.
Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết
Nguyễn Văn Tuyết quê Nhơn Ân, nay thuộc thị xã An Nhơn. Thuở trai tráng, Tuyết có sức mạnh, giỏi võ nghệ, thường tụ tập đồ đảng hoành hành tại các chợ. Giới giang hồ mãi võ đến hoạt động ở chợ Gò Chàm đều phải ra mắt Tuyết, được Tuyết cho phép thì mới được hành nghề. Tuyết được võ sư Trần Kim Hùng nhận làm đệ tử và gả cháu gái tên là Trần Thị Lan. Năm năm khổ luyện thành tài, Nguyễn Văn Tuyết trở lại quê nhà.
Một hôm nghe tin Võ vương Nguyễn Phúc Khoát đến phủ Quy Nhơn, đang đêm Tuyết lẻn vào hành cung bắt trộm chiến mã của chúa Nguyễn. Đây là con ngựa Xích kỳ tuyệt vời, cống phẩm của vua Cao Miên tặng chúa Nguyễn. Tuyết lên ngựa phi như bay về vùng Tây Sơn Thượng mà trời vẫn chưa sáng tỏ. Bị mất ngựa quý, Nguyễn Phúc Khoát truyền lệnh truy nã khắp nơi. Khi chúa Nguyễn về Phú Xuân, trong dinh Tuần phủ Quy Nhơn thấy có dòng chữ lớn: ”Kẻ trộm ngựa chính là Nguyễn Văn Tuyết ở Tuy Viễn”, Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên và quan quân thảy đều kinh hãi.
Năm 1771, Nguyễn Văn Tuyết theo anh em nhà Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa và cùng với nghĩa quân Tây Sơn lập nhiều chiến công hiển hách. Năm 1778, Nguyễn Văn Tuyết được Nguyễn Huệ giao trấn giữ Bắc Hà cùng Ngô Văn Sở, Vũ Văn Nhậm. Khi quân xâm lược Thanh kéo sang biên giới, Ngô Văn Sở phái Nguyễn Văn Tuyết từ Thăng Long phi ngựa suốt 4 ngày liền về Phú Xuân( (ngày 21/12/1788) báo tin cho Nguyễn Huệ. Ngày hôm sau, 22/12/1788, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế tại núi Bân và làm lễ tiến quân ra bắc đánh quân Thanh. Đô đốc Tuyết được vua Quang Trung giao chỉ huy cánh quân đánh vu hồi nhằm tiêu diệt quân Thanh khi chúng rút khỏi Thăng Long tháo chạy về nước. Đội quân vu hồi của Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được vua Quang Trung ban thưởng.
Năm 1802, Nguyễn Văn Tuyết cùng vợ là nữ tướng Trần Thị Lan phò giá vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản ra Bắc, giữa đường bị tướng quân Lê Chất của Gia Long bắn chết. Trần Thị Lan bị bắt, bà dùng gươm tự sát.
Đô đốc Bùi Thị Xuân
Bùi Thị Xuân quê làng Xuân Hoà, gần Phú Phong (đồng hương với Vũ Văn Dũng), nay là thôn Phú Xuân, xã Tây Xuân, huyện Tây Sơn. Bà là con ông Bùi Đắc Chí, bà gọi Bùi Đắc Tuyên bằng chú ruột, bà là vợ của Trần Quang Diệu.
Lúc nhỏ, bà giỏi võ nghệ, lại xinh đẹp. Năm 12 tuổi, Bùi Thị Xuân được một lão bà dạy võ, sau 3 năm khổ luyện thành thục các môn kiếm, quyền, nhảy cao, nhảy xa... Khi võ nghệ của Bùi Thị Xuân đạt trình độ điêu luyện thì Sư bà qua đời. Bùi Thị Xuân mở trường dạy võ tại nhà, học trò theo học rất đông. Bà có con ngựa trắng được luyện thành chiến mã theo bà phò giúp nhà Tây Sơn.
Tài thao lược và chí khí anh hùng của Bùi Thị Xuân được thêu dệt thành nhiều truyền thuyết ly kỳ.Có chuyện kể rằng lúc còn nhỏ, Bùi Thị Xuân sáng dạ, học giỏi, viết chữ rất đẹp và luôn có chí nam nhi, thường thích mặc quần áo con trai. Đi học chữ nghĩa, văn chương, bị bạn trêu, nàng bỏ học, về nhà chuyên tâm học võ. Có một bà lão, theo dân gian nói là tổ sư một môn phái võ nổi tiếng ở An Thái, thấy Bùi Thị Xuân có chí, nên cứ hằng ngày vào lúc chiều tà thì bà đến nhà Bùi Thị Xuân dạy võ cho đến canh một, kéo dài suốt 3 năm. Khi võ nghệ đã cao cường, có một lần Bùi Thị Xuân đang đi săn bắn ở trong núi thì bỗng thấy cây cối rung chuyển, gió thổi ào ào rồi một tiếng rống thảm thiết vang lên. Nhác thấy một con voi trắng đang bị một con mãng xà khổng lồ quấn chặt đang giẫy giụa chờ chết, Bùi Thị Xuân liền múa thương xông vào đâm phọt óc con trăn lớn. Voi trắng thoát chết bò dậy dập đầu tạ ơn cứu mạng, rồi bỗng nhiên rống lên mấy tiếng vang động cả núi rừng. Một bầy voi rừng không biết từ đâu vội chạy đến bên voi trắng. Hoá ra, Bùi Thị Xuân đã cứu sống một con voi chúa. Về sau, Bà thần phục cả đàn voi, dẫn về nhà nuôi dưỡng, huấn luyện. Khi theo về với Tây Sơn, Bùi Thị Xuân đã có trong tay cả một đàn voi chiến. Cũng có chuyện kể rằng, một hôm ra chợ Phú Phong, thấy có nhiều voi thồ hàng cho đồng bào Thượng, Bùi Thị Xuân mạnh dạn đến gần một con voi để bày tỏ sự trìu mến, thì bỗng dưng nó quỳ xuống cho nàng trèo lên cổ và điều khiển nó đi lui, đi tới dễ dàng. Từ đó Bùi Thị Xuân nảy sinh ước vọng được như Bà Trưng, Bà Triệu.
Tham gia khởi nghĩa Tây Sơn ngay từ đầu, Bùi Thị Xuân được giao trông coi cơ sở hậu cần ở vùng Tây Sơn Thượng. Bà có sáng kiến làm lương khô bằng bánh tráng và thịt bò ninh (thưng) để quân đội Tây Sơn mang theo ăn khi ra chiến trận. Bà là một vị Đô đốc tài ba, là danh tướng luyện voi và sử dụng tượng binh đánh giặc. Trong cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, binh chủng đặc biệt và dũng mãnh, Đội tượng binh, có lúc lên đến 500 thớt voi do Bùi Thị Xuân trực tiếp chỉ huy, đã khiến quân Trịnh, quân Nguyễn và giặc Mãn Thanh vô cùng khiếp sợ. Uy lực và sức công phá của voi chiến càng được nhân lên gấp bội khi được quân Tây Sơn sử dụng để chở pháo dã chiến vừa đi, vừa bắn. Trong trận đại phá quân Thanh mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), một trăm thớt voi mang pháo nhỏ đã được huy động tấn công vào đồn Ngọc Hồi và nhiều thớt voi khác được bố tri ở Đầm Mực sẵn sàng ứng chiến, đã làm cho giặc Mãn bạt vía, kinh hồn. Những chiến công vang dội của binh chủng Tượng binh do nữ Đô đốc Bùi Thị Xuân xây dựng, huấn luyện, chỉ huy đã góp phần không nhỏ vào chiến thắng của nghĩa quân Tây Sơn.
Bùi Thị Xuân có công phát hiện, đào tạo 4 cô gái là Bùi Thị Nhạn, Trần Thị Lan, Nguyễn Thị Dung, Huỳnh Thị Cúc thành những Phó tướng mưu trí, dũng cảm, tài năng, trong “Ngũ Phụng thư“ của nhà Tây Sơn, đứng đầu là Đô Đốc Bùi Thị Xuân.
Năm1802, Đô đốc Bùi Thị Xuân được giao chỉ huy một đạo quân đánh vào luỹ Trấn Ninh nhằm khôi phục lại kinh thành Phú Xuân bị quân Nguyễn chiếm đóng. Dưới sự chỉ huy của Bùi Thị Xuân, luỹ Trấn Ninh rung chuyển trước sức tấn công vũ bão của quân dội Tây Sơn, khiến chúa Nguyễn vô cùng khiếp sợ. Đó là hình ảnh anh hùng nhất của nữ kiệt Bùi Thị Xuân trong trang sử oanh liệt cuối cùng của triều đại Tây Sơn.
Tháng 4 năm 1802, Nguyễn Ánh cho quân phản công. Bùi Thị Xuân cùng chồng là Trần Quang Diệu và con là Trần Bích Ngọc bị bắt ở Nghệ An. Ngày 30.11.1802, Gia Long hành hình gia đình Bùi Thị Xuân vô cùng man rợ.
Đối với nhân dân Bình Định và nhân dân Tây Sơn, Bùi Thị Xuân là hình ảnh người phụ nữ có tinh thần thượng võ cao đẹp nhất, oanh liệt nhất, một lòng tận trung với sự nghiệp Tây Sơn đến hơi thở cuối cùng.
Danh nhân phong trào Cần Vương
Nguyễn Duy Cung
Nguyễn Duy Cung sinh năm Quý Mão -1834, tại làng Vạn Tường, huyện Chương Nghĩa, nay là huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Ông đậu cử nhân năm Mậu Thìn -1868, tại Trường thi Bình Định. Khi nổ ra phong trào Cần Vương, ông làm Án sát Bình Định.
Năm 1885, văn thân Bùi Đìền cùng nguyên Tổng đốc Đào Doãn Địch đem nghĩa quân vây thành Bình Định. Khi Tổng đốc Lê Thận cho bọn tay sai đóng chặt cửa thành và tới tấp bắn ra, Án sát Nguyễn Duy Cung liền ra lệnh quân sĩ mở cửa thành cho nghĩa quân xông vào chiếm thành. Chiếm được thành Bình Định, nghĩa quân ra Hịch Cần vương kêu gọi toàn dân và văn thân yêu nước cùng nhau đoàn kết đứng lên phò vua đánh Pháp, cứu nước, cứu nhà. Sau trận thắng nầy, Duy Cung đã sát cánh cùng Đào Doãn Địch đánh Pháp ở Trương Úc. Khi Mai Xuân Thưởng kế tiếp sự nghiệp Đào Doãn Địch, trực tiếp lãnh đạo phong trào Cần vương Bình Định, Nguyễn Duy Cung là một vị tham mưu đắc lực.
Khi Lê Trung Đình vốn là học trò cũ của mình bị quân Nguyễn Thân vây trong thành Quảng Ngãi, Nguyễn Duy Cung theo lệnh Mai Nguyên suý đem quân ra cứu viện. Lê Trung Đình và Nguyễn Tự Tân bị Nguyễn Thân giết; Nguyễn Duy Cung quay về Bình Định.
Tháng 8.1885, quân Pháp đổ bộ lên Quy Nhơn, nghĩa quân Cần vương rút về An Nhơn. Nguyễn Duy Cung bị một tên phản bội đánh lừa, bố trí bắt ông đem nộp cho giặc Pháp. Chúng tra tấn ông rất dã man và giở trò mua chuộc. Trong tù, ông đã cắt tay lấy máu viết bài hịch tỏ rõ lòng yêu nước và khí phách thà chịu chết chứ không bao giờ theo giặc.
Ngày 1.7 năm Ât Dậu, thực dân Pháp đem Nguyễn Duy Cung ra xử chém. Năm ấy, ông mới 42 tuổi.
Võ Duy Dương
Võ Duy Dương còn có tên là Ngũ linh Dương, Thiên Hộ Dương. Ông quê Cù Lâm Nam nằm ở chân núi Chà Rang thuộc xã Nhơn Lộc, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ông là đời thứ bảy của ông tổ Võ Hữu Man quê Miền Bắc vào Tuy Viễn lập nghiệp. Lúc thiếu thời, đi thi võ, ông cử một lúc 5 quả linh, mỗi quả nặng 60 cân nên được gọi là “Ngũ linh Dương”.
Năm 1857, hưởng ứng chính sách khai hoang lập ấp của vua Tự Đức, Võ Duy Dương vào miệt Ba Giồng (Định Tường xưa kia, nay là Đồng Tháp) chiêu dân lập đồn điền và kết bạn với Nguyễn Hữu Huân (Thủ khoa Huân).
Khi thực dân Pháp đánh chiếm Gia Định, Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân, Trương Định đứng lên chiến đấu chống Pháp xâm lược. Tháng 5.1869, Võ Duy Dương được Triều đình phong chức Chánh Quản đạo, Nguyễn Hữu Huân Phó Quản đạo. Tháng 11.1859, vua Tự Đức cử ông đi dẹp cướp biển ở Quảng Ngãi. Thắng trận, ông được phong chức Thiên Hộ, hàm Chánh Bát phẩm nên được gọi là Thiên Hộ Dương.
Tháng 5.1863, Nguyễn Hữu Huân bị bắt nộp cho giặc Pháp ở An Giang. Tháng 8 năm đó, Trương Định hy sinh tại Gò Công. Bất chấp lời kêu gọi ngừng chiến và lệnh cấm chiêu mộ nghĩa quân của Triều đình Huế, mặc dù hầu hết chiến hữu đều bị bắt và hy sinh, Võ Duy Dương vẫn kiên trì kháng chiến chống Pháp. Thực dân Pháp ép vua Tự Đức ra Chỉ dụ công khai truy bắt ông và Trương Quyền, con Trương Định.
Tháng 10.1866, Võ Duy Dương qua đời, hưởng dương 38 tuổi.
Tưởng nhớ công lao của người anh hùng chống Pháp, nhân dân Đồng Tháp đã lập đền thờ ông tại Gò Tháp, xã Mỹ Hoà, huyện Tháp Mười.
Đào Doãn Địch
Đào Doãn Định sinh tại làng Tùng Giảng, xã Phước Hoà, huyện Tuy Phước. Ông là Tổng đốc, Hồng Lô tự Thiếu khanh. Năm 1885, khi kinh thành Huế thất thủ, ông hưởng ứng Chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, gia nhập hàng ngũ Văn thân, chiêu mộ nghĩa quân tham gia chống Pháp. Phụng nghi Đại phu Đoàn Doãn Địch được Tôn Thất Thuyết giao nhiệm vụ phổ biến kế hoạch và tin tức khởi nghĩa Cần Vương cho các tỉnh từ Bình Định vào Bình Thuận. Thực hiện chủ trương của Tôn Thất Thuyết, Đào Doãn Địch lập Nghĩa hội Bình Định do ông đứng đầu. Nghĩa hội là một tổ chức độc lập như một chính quyền thức hai, có nhiệm vụ hỗ trợ chính quyền sở tại và quân đội Triều đình tại địa phương, huy động nhân, tài, vật, lực phục vụ kháng chiến chống Pháp, phò vua, cứu nước. Nghĩa hội gồm hai ban Văn hội và Võ hội. Dựa và Võ hội, Đào Doãn Địch lập ra đội quân Đoàn Kiệt, còn gọi là Nghĩa Dũng, sống tập trung, có căn cứ riêng, sẵn sàng cơ động chiến đấu chống Pháp và Hương binh ở xã, thôn làm nhiệm vụ canh phòng, bảo vệ trật tự, trị an và diệt trừ bè lũ Việt gian bán nước. Lực lượng vũ trang của Đào Doãn Địch đông đến hàng nghìn người.
Ông đã cùng văn thân Bùi Điền mang quân vây thành Bình Định, ra lời Hịch kêu gọi nhân dân và văn thân mọi miền đứng lên phò vua, đánh Pháp. Khi thực dân Pháp cho quân đổ bộ lên cửa Thị Nại, tấn công vùng Cầu Đôi-Trường Úc, Đào Doãn Định đã anh dũng chỉ huy nghĩa quân chiến đấu ngoan cường. Sau vì thế yếu, ông cho rút quân về vùng rừng núi Phú Phong, hợp lực cùng Mai Xuân Thưởng chống Pháp. Trước khi tạ thế (năm 1885), Đào Doãn Định trao binh quyền cho Mai Xuân Thưởng.
Bùi Điền
Bùi Điền quê thôn Hội Phú, xã Mỹ Hoà, huyện Phù Mỹ. Khi vua Hàm Nghi ban Chiếu Cần Vương, văn thân Bùi Điền chiêu mộ nghĩa quân, chiến đấu trong phong trào Cần Vương Bình Định do Đào Doãn Địch khởi xướng. Ông xây đại đồn ở xứ Cây Gia, nay thuộc thôn Vĩnh Bình, xã Mỹ Phong, huyện Phù Mỹ; cho quân đóng giữ núi Chớp Chài.
Ngày 14.7.1885, Bùi Điền đem nghĩa quân, phối hợp cùng quân của Đào Doãn Địch vây hãm thành Bình Định, truyền hịch Cần Vương. Sau đó, ông tham gia chống Pháp dưới quyền chỉ huy của Bình Tây Đại Nguyên soái Mai Xuân Thưởng, hoạt động trên một địa bàn rộng lớn từ Bình Định vào Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận.
Gần 2 năm tham gia phong trào Cần Vương, Thống Trấn Bùi Điền đã lập được nhiều chiến công vang dội: Tháng 12/1885, Bùi Điền phối hợp với nghĩa quân Quảng Ngãi đánh chiếm đồn Lão Thuộc (tức Lỗ Thục, nay thuộc thôn An Đỗ, xã Hoài Sơn, huyện Hoài Nhơn), bắt sống Đề Đốc sơn phòng Đinh Hội; đầu tháng 2.1886, đánh chiến huyện đường Mộ Đức (Quảng Ngãi) và đồn Vạn Lý (Đức Phổ, Quảng Ngãi) do quân sơn phòng của tên bán nước Nguyễn Thân đóng giữ, hỗ trợ cho nghĩa quân Nguyễn Bá Loan của Cần Vương Quảng Ngãi tấn công tỉnh thành Quảng Ngãi; tháng 8.1886, lại tấn công quân sơn phòng của Nguyễn Thân đóng tại núi Mỹ Trang (huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi).
Năm 1887, hai tên tay sai đắc lực của quân cướp nước là Nguyễn Thân đem quân từ Quảng Ngãi đánh vào, Trần Bá Lộc từ Khánh Hoà đánh ra, vây chặt mật khu Linh Đỗng. Dưới sự chỉ huy của Mai Xuân Thưởng, Bùi Điền cùng các phụ tá khác của Mai công đã chiến đấu vô cùng oanh liệt. Trên đường rút vào vùng rừng núi Phú Yên để tiếp tục sự nghiệp chống Pháp, Bùi Điền cùng Mai Xuân Thưởng đều bị bắt và hành hình tại Gò Chàm ngày 7 tháng 6 năm 1887, nhằm ngày rằm tháng tư nhuận, năm Đinh Hợi..
Tăng Bạt Hổ
Tăng Bạt Hổ tự là Sư Triệu, hiệu là Điển Bát, tên thật là Tăng Doãn Văn. Ông sinh ngày 19.7.1858 tại làng An Thường, huyện Bồng Sơn, phủ Hoài Nhơn (nay là thôn An Thường, xã Ân Thạnh, huyện Hoài Ân).
Sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đất nước bị thực dân Pháp xâm chiếm, nội bộ triều đình Huế chia rẽ nghiêm trọng: Phe chủ hoà, Phái chủ chiến, là một thiếu niên thông minh, có lòng yêu nước, có chí cứu dân, năm 14 tuổi, Nhâm Thân- 1872, Tăng Bạt Hổ tham gia chống Pháp trong hàng ngũ tướng cờ đen Lưu Vĩnh Phúc; ông làm Cai cơ trong lực lượng của Trần Xuân Soạn đóng tại Bắc Kỳ. Ông được Tôn Thất Thuyết, đứng đầu Phe chủ chiến, cử về tỉnh Bình Định giữ chức Cai cơ chỉ huy đội quân đóng ở đồn An Dũ, huyện Hoài Nhơn. Trong đội quân của Tăng Doãn Văn có nhiều văn thân và võ sư yêu nước.
Khi vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, từ 1885-1887, Tăng Bạt Hổ tham gia phong trào Cần Vương Bình Định, lúc đầu do Đào Doãn Địch lãnh đạo, sau giao Mai Xuân Thưởng chỉ huy. Ông lập Sở chỉ huy Tổng Dinh tại vùng rừng núi Kim Sơn thuộc huyện Hoài Ân. Năm Bính Tuất,1886, Tăng Bạt Hổ hợp lực cùng Bùi Điền chống quân của tên đại gian ác Nguyễn Thân ở đồn Lại Giang, Bồng Sơn, ông bị trọng thương. Năm Đinh Hợi-1887, ông được nghĩa quân đồng bào dân tộc thiểu số dẫn đường lên Tây Nguyên. Khi đến đèo An Khê thì gặp một con hổ ra chặn đường. Ông tuốt gươm nhìn hổ, con hổ bỏ đi. Từ đó, anh em nghĩa quân gọi tên ông là Tăng Bạt Hổ.
Năm 1887, sau khi phong trào Cần Vương Bình Định bị dập tắt, Tăng Bạt Hổ từ Tây Nguyên tìm đường sang Lào, Xiêm, Trung Quốc, Nhật làm nghề hàng hải, tìm bạn đồng minh cứu dân, cứu nước. Năm 1903, ông về nước tham gia phong trào Đông Du, đưa cụ Phan Bội Châu và Đặng Tử Kính sang Nhật Bản nhờ giúp đỡ đánh đuổi thực dân Pháp, nhưng việc không thành. Năm 1905, Tăng Bạt Hổ mang bài văn khuyến khích Đông Du của cụ Phan về nước truyền bá và tổ chức thanh niên sang Nhật học tập. Đến giữa năm 1907, ông đã huy động được 190 du học sinh.
Trên đường từ Nam Bộ ra Huế, Tăng Bạt Hổ lâm bệnh nặng và ngày 27.8.1907, ông mất trên một chiếc thuyền ở sông Hương, hưởng dương 50 tuổi. Ông được an táng tại dốc Nam Giao, Huế.
Tăng Bạt Hổ là một trong những người khai sáng phong trào Đông Du (Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ, Đặng Thái Thân, Đặng Tử Kính, Nguyễn Hàm). Ông có công lớn, sau Phan Bội Châu, trong việc tổ chức thực hiện chủ trương duy tân, tự cường để giải phóng dân tộc của Duy Tân Hội. Tinh thần yêu nước, chống Pháp của Tăng Bạt Hổ được các chí sĩ yêu nước thời bấy giờ như Đặng Thái Thân, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng ca ngợi trong các bài văn phúng điếu ông: “Thề quyết máu sôi, đất nóng, cờ đào tỏ mặt giống da vàng...”.
Mai Xuân Thưởng
Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân, 1860, lúc nhỏ tên là Mai Văn Siêu, người làng Phú Lạc, nay thuộc xã Bình Thành, huyện Tây Sơn. Cha là Mai Xuân Tín (1819-1866), còn có tên là Mai Văn Phẩm, đậu cử nhân khoa thi Hương năm Đinh Mùi, 1847, làm quan đến chức Bố Chánh Cao Bằng. Mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt, con một vọng tộc trong làng. Mai Xuân Thưởng mồ côi cha lúc mới 6 tuổi. Nhờ có sự rèn dạy của mẹ và sự giáo huấn tận tình của gia sư Lê Duy Cung, nên ông giỏi cả văn lẫn võ. Năm Ấ Dậu, Hàm Nghi thứ nhất (1885), ông thi đỗ cử nhân tại Trường thi Bình Định, cùng khoá với cụ Cử Lê Thân, thủ khoa người làng An Cửu, huyện Tuy Phước và Cử Nhì Nguyễn Hân, người làng An Lương, huyện Phù Mỹ. Trước cảnh đất nước đang bị thực dân Pháp lấn chiếm từng bước, trong bài vịnh các sĩ tử Trường Thi Bình Định, Mai Xuân Thưởng viết: “Đạo trung vua tôi, mình dám quản, Oán hờn người Pháp, có đâu vơi“.
Lúc này, kinh thành Huế đã bị thất thủ sau cuộc binh biến không thành của Phe chủ chiến do Tôn Thất Thuyết cầm đầu. Mai Xuân Thưởng rời Trường thi, về làng chiêu mộ được 200 nghĩa sĩ, ngày đêm luyện tập, chờ thời cơ giúp nước.
Sau khi vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, phong trào phò vua, chống Pháp của văn thân và nhân dân Bình Định, do Đào Doãn Địch lãnh đạo dâng lên mạnh mẽ. Trước những cuộc phản công quyết liệt của quân Pháp rất hùng hậu, Đào Doãn Địch phải rút nghĩa quân về vùng núi rừng hiểm trở ở Phú Phong để củng cố và xây dựng lực lượng đánh Pháp lâu dài. Mai Xuân Thưởng đem toàn bộ lực lượng của miình gia nhập nghĩa quân Đào Doãn Địch. Đào Doãn Địch lâm bệnh hiểm nghèo, trước khi qua đời, ông trao toàn bộ binh quyền cho Mai Xuân Thưởng, lúc nầy mới 25 tuổi.
Mai Xuân Thưởng đặt đại bản doanh tại Lộc Đổng (Đồng Hươu), Phú Phong, Bình Khê; xây dựng nhiều mật khu, nhiều bão đồn và phòng tuyến phòng thủ từ xa và nhiều kho lương dự trữ ở các vùng căn cứ kháng chiến. Kiên cố nhất, kín đáo nhất là mật khu Linh Đổng. Từ Linh Đổng có đường ra Lộc Đổng, mà cũng có đường sang Đồng Vụ (Trinh Tường), là kho tích trữ lương thực của nghĩa quân, gọi là Nam Trại. Cũng nằm ở tả ngạn sông Côn, phía trong Đồng Vụ, ném về phía tây nam là Đồng Le. Hữu ngạn sông Côn có Đồng Quan (Thuận Ninh), là nơi nghĩa quân đóng quân, gọi là Bắc Trại. Năm Bính Tuất,1886, quân Pháp kéo lên đánh Bình Khê, Mai Xuân Thưởng cho quân phục kích hai bên đường vào Đồng Vụ, rồi lập mưu nhử địch từ Phú Phong kéo vào. Khi quân địch đã lọt vào trận địa phục kích, nghĩa quân bất ngờ xông ra chém giết. Địch trở tay không kịp, lớp bị chết, lớp quăng súng tháo chạy.
Ông tổ chức phong trào Cần vương chống Pháp rất quy mô. Ở trong tỉnh, ông quy tụ nhiều văn thân yêu nước như Bùi Điền (Phù Mỹ), Nguyễn Hoá, Trẩn Trung, Trần Tân (Bình Khê), Nguyễn Cang, Nguyễn Trọng Trì, Đặng Thành Tích (An Nhơn) và một vị quan đương chức là Án sát Nguyễn Duy Cung. Bên ngoài tỉnh, ông liên kết với phong trào Cần vương tỉnh Quảng Ngãi do Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân đứng đầu, phong trào Cần vương Phú Yên do Trương Chính Đường lãnh đạo và phong trào Cần vương các tỉnh Quảng Nam, Khánh Hoà, Bình Thuận, tạo thành một khối liên minh chặt chẽ, ủng hộ vua Hàm Nghi.
Thực dân Pháp phế truất vua Hàm Nghi (xuất bôn), lập Đồng Khánh lên ngôi vua. Phong trào Cần Vương các tỉnh nam Trung kỳ ngày càng lớn mạnh. Triều đình Huế yêu cầu thực dân Pháp cho quân phối hợp cùng quân triều đình đàn áp đẫm máu nghĩa quân của Mai Nguyên suý. Quân Pháp cho pháo thuyền án ngự cửa biển Quy Nhơn, đồng thời sai Trần Bá Lộc từ Khánh Hoà đánh ra, Nguyễn Thân từ Quảng Ngãi đánh vào. Quân của Nguyễn Thân và Trần Bá Lộc đi đến đâu tàn sát, đốt phá đến đó. Chúng bắt những người thân của nghĩa quân đem tra tấn dã man, bắt thân mẫu của Mai Xuân Thưởng để làm con tin, nhưng Mai Xuân Thưởng và các chiến sĩ Cần Vương vẫn một lòng kiên trung, bất khuất.
Mai Xuân Thưởng cùng nghĩa quân bị vây chặt bốn ngày đêm liền tại mật khu Lộc Đổng. Đầu năm 1887, quân Pháp phối hợp với quân Nam triều mở cuộc tấn công lớn nhằm tiêu diệt nghĩa quân. Nghĩa quân chiến đấu vô cùng dũng cảm. Nhưng do lực lượng ta quá ít, vũ khí lại rất thô sơ, không thể thắng nổi quân địch có quân số đông hơn ta gấp nhiều lần, lại được trang bị vũ khí hiện đại, hoả lực mạnh, nên đến giữa tháng 4.1887, hầu hết các căn cứ kháng chiến của nghĩa quân đều bị địch đánh chiếm.
Được đồng bào Ba Na dẫn đường, Mai Xuân Thưởng cùng gia đình và những chiến hữu còn lại định vượt đèo Phú Quý vào Phú Yên tiếp tục xây dựng lực lượng kháng chiến lâu dài, nhưng đã bị địch phục kích bắt sống vào ngày 4.5.1887. Chúng dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc, nhưng ông kiên quyết không chịu khuất phục. Rằm tháng Tư nhuận năm Đinh Hợi, nhằm ngày 6.6.1887, Mai Xuân Thưởng, Bùi Điền, Nguyễn Đức Nhuận và 11 chiến hữu khác đã bị xử trảm tại Gò Chàm, nằm phía tây nam thành Bình Định. Trước khi bị hành hình, ông khẳng khái ngâm bài tuyệt bút nay vẫn còn lưu truyền trong dân gian: “Chết nào có sợ, chết như chơi, Chết bởi vì dân, chết bởi thời. Chết hiếu chi nài xương thịt nát, Chết trung bao quản cổ đầu rơi. Chết nhân tiếng để vang nghìn thuở, Chết nghĩa danh thơm vọng mấy đời. Thà chịu chết vinh hơn sống nhục, Chết nào có sợ, chết như chơi”. Ông tin tưởng, khẳng định trong một bài ngâm khác: “Rồi đây thoi ngọc đưa xuân tới, Một nhánh mai già trổ nụ non”.
Khi ấy, Mai Xuân Thưởng mới 27 tuổi.
Nguyễn Trọng Trì
Nguyễn Trọng Trì sinh năm 1854 tại làng Vân Sơn, huyện Tuy Viễn, nay là thôn Vân Sơn, Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn.
Ông đậu cử nhân khoa Bính Tý-1876, tại Trường thi Bình Định, sau đó được bổ chức Tư Vụ tại Triều. Năm 1883, vua Tự Đức băng hà, hải quân Pháp vào cửa Thuận, buộc triều đình Huế phải ký hoà ước Quý Mùi-1883, công nhận quyền bảo hộ của thực dân Pháp. Trước tình thế đó, Nguyễn Trọng Trì từ quan trở về quê lo việc chống Pháp.
Năm 1885, kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi xuất bôn, xuống Chiếu Cần Vương. Nguyễn Trọng Trì gia nhập nghĩa quân do nguyên Tổng đốc Đào Doãn Địch lãnh đạo nổi lên chống Pháp.
Sau những trận giao tranh ác liệt tại vùng Trường Úc, Đào Doãn Địch rút quân về rừng núi Phú Phong, sau đó lâm bệnh hiểm nghèo. Trước khi qua đời, Đào Doãn Địch trao binh quyền lại cho Mai Xuân Thưởng.
Khi Mai Xuân Thưởng lên nắm quyền lãnh đạo phong trào Cần Vương Bình Định, Nguyễn Trọng Trì và Án sát Nguyễn Duy Cung làm tham mưu cho Mai Nguyên suý. Sau đó, Nguyễn Trọng Trì giữ chức Hiệp Trấn thứ Hương Sơn, bản doanh đặt tại vùng núi nằm giữa ba làng Kiên Thành, Trường Định và Vân Trường thuộc xã Bình Hoà, huyện Tây Sơn. Nguyễn Trọng Trì đã góp phần đáng kể vào những thắng lợi vang dội của phong trào Cần Vương Bình Định.
Năm 1887, sau khi Mai Xuân Thưởng và nhiều anh hùng, hào kiệt Cần Vương bị giặc bắt và hành quyết, phong trào chống Pháp tan rã, Nguyễn Trọng Trì đành ôm hận lẩn tránh tại các vùng núi cao, nuôi chí phục thù.
Năm 1895, vua Thành Thái ban Chiếu bãi bỏ lệnh truy nã các chiến sĩ Cần Vương, Nguyễn Trọng Trì được trở về làng cũ. Việc cứu nước không thành, từ đó đến cuối đời, ông phẫn chí, mượn chén rượu giải sầu, nay đây, mai đó, giao du, đàm đạo văn chương với Tiến sĩ Hồ Sĩ Tạo, Phó bảng Đào Phan Duân, Cử nhân Đào Tấn.
Ông qua đời năm Nhâm Tuất, 1932, thọ 68 tuổi.
Về văn nghiệp, Nguyễn Trọng Trì nổi tiếng văn thơ và tuồng, với tuồng hát bộ Phụng Hoàng Anh và tập Vân Sơn tạp bút bằng chữ Hán.
Võ Trứ
Võ Trứ quê làng Nhơn Ân, tổng Kỳ Sơn, phủ Tuy Phước, nay là thôn Nhơn Ân, xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước. Ông là con một gia đình khá giả, có học vấn, đã mấy lần đi thi tú tài tại Trường thi Bình Định nhưng không đỗ. Võ Trứ có một thời làm Chánh tổng tại quê nhà.
Năm Ất Hợi, 1885, vua Hàm Nghi ban chiếu Cần Vương, Võ Trứ tham gia nghĩa quân của Mai Xuân Thưởng đánh nhau với Pháp nhiều trận ác liệt.
Sau khi Mai Xuân Thưởng bị giặc bắt giết, Võ Trứ chạy vào chùa Đá Bạc ở vùng cao Sơn Hoà, tỉnh Phú Yên ẩn náu. Sư cụ chùa Đá Bạc là một nhà chân tu nổi tiếng và có tinh thần yêu nước, đệ tử theo thầy rất đông. Ảnh hưởng của sư cụ lan rộng ra tận chùa Hang, xã Mỹ Hoà, huyện Phù Mỹ và chùa Chánh Danh, xã Cát Tài, huyện Phù Cát. Khi sư cụ ra chùa Chánh Danh, chính quyền tay sai của thực dân Pháp cho truy bắt, nhưng ông đã trốn thoát.
Sau một thời gian tuyên truyền, vận động, Võ Trứ đã giác ngộ tinh thần Cần vương, chống Pháp cho một bộ phận đáng kể các nhà sư, nhân dân và đồng bào dân tộc thiểu số của hai tỉnh Bình Định và Phú Yên. Rằm tháng 7 năm Đinh Dậu,1897, Võ Trứ tổ chức cuộc họp bàn kế hoạch khởi nghĩa, tại chùa Đá Trắng nằm trên một đỉnh núi thuộc phủ Tuy An, cách Sông Cầu (Tỉnh lỵ Phú Yên lúc bấy giờ) độ 25 cây số. Nhà yêu nước Trần Cao Vân đang hoạt động ở Bình Định núp dưới danh nghĩa thầy địa lý, đã tham dự cuộc họp với tư cách là cố vấn của nghĩa quân. Sau cuộc họp nầy, nghĩa quân khẩn trương chuẩn bị khởi nghĩa.
Cuối tháng 4 năm Mậu Tuất, 1898, Võ Trứ cùng 10 sư tăng dẫn đầu nghĩa quân người Thượng và dân binh hai tỉnh Phú Yên, Bình Định mang theo giáo mác, cung tên, gậy gộc, rựa cán dài từ một khu rừng thuộc huyện Đồng Xuân kéo về bao vây huyện lỵ Sông Cầu và dự định sau khi chiếm được tỉnh lỵ Phú Yên (đóng tại Sông Cầu), nghĩa quân sẽ theo đường thượng đạo kéo ra tập kích Quy Nhơn.
Được Tri huyện Đồng Xuân cấp báo, Công sứ Phú Yên tập trung binh lực bảo vệ Sông Cầu, đồng thời huy động đội lính Khố xanh đón đánh nghĩa quân ở vùng Dốc Găng, Dốc Quýt (cách Sông Cầu khoảng 5 km). Trận chiến diễn ra hết sức ác liệt. Nghĩa quân chiến đấu vô cùng dũng cảm, ngoan cường. Nhưng vì tương quan lực lượng quá chênh lệch nên Võ Trứ phải rút quân vào vùng rừng núi Đồng Xuân cố thủ. Giặc Pháp cho đốt rừng và bắt gia đình nghĩa quân tra tấn rất dã man, buộc họ phải kêu gọi con em đầu hàng.
Để cứu nguy cho nghĩa quân và dân lành, Võ Trứ đành ra nộp mình tại tỉnh lỵ Sông Cầu. Bị quân giặc tra tấn cực hình, nhưng Võ Trứ không hề khuất phục, trái lại còn khẳng khái chưởi mắng bọn Nam triều làm tay sai cho giặc, hại nước, hại dân.
Mùa hè năm 1898, Võ Trứ bị hành quyết tại Sông Cầu.
Tinh thần yêu nước và khí phách can trường của Võ Trứ, một thủ lĩnh Cần Vương chông Pháp, được thể hiện đậm nét trong hai câu thơ của ông: ”Huyết nhục cương như đồng thiết đạn, Đang tâm khả sử quỷ thần kinh” (Xương tan, thịt nát không nao núng, Chí cả, tâm cao, giặc khiếp hàng).
Nguyễn Trung Trực
Nguyễn Trung Trực còn có tên là Nguyễn Văn Lịch. Ông bà nội Nguyễn Trung Trực quê làng Vĩnh Lợi, huyện Phù Mỹ. Cả gia đình theo ghe bầu vào nam làm ăn và định cư tại phủ Tân An, tỉnh Gia Định, nay thuộc thị xã Tân An, tỉnh Long An.
Năm 1861, hưởng ứng phong trào Cần vương chống Pháp, Nguyễn Trung Trực vận động nông dân nổi dậy chống Pháp ở phủ Tân An, ông được Triều đình Tự Đức phong chức Quản cơ. Sau đó, Nguyễn Trung Trực tổ chức phục kích đốt tàu chiến L’ Espérance của Pháp trưa ngày 10.12.1861 tại vàm Nhật Tảo, ông được phong chức Lãnh binh.
Năm 1867, Nguyễn Trung Trực được vua Tự Đức phong chức Hà Tiên Thành thủ uý, trấn giữ đất Hà Tiên. Ngày 23.6.1867, Hà Tiên thất thủ, ông rút về lập căn cứ ở Hòn Chồng. Ngày 16.6.1868, ông cho quân đánh úp đồn Kiên Giang, Pháp phản công mạnh, ông rút ra đảo Phú Quốc.
Giặc Pháp vây hãm đảo Phú Quốc, đời sống nhân dân vô cùng khốn đốn, gian nguy. Để tránh tổn thất cho nhân dân và nghĩa binh, tháng 10.1868, ông tự ra nộp mình cho giặc. Thực dân Pháp tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc, nhưng ông kiên quyết không theo. Cuối cùng, ngày 27.10.1868, chúng đem ông ra hành quyết. Năm đó, Nguyễn Trung Trực mới 31 tuổi.
Danh nhân Phong trào chống thuế
Hồ Sĩ Tạo
Hồ Sĩ Tạo, người làng Hoà Cư, huyện Tuy Viễn, nay là thôn Hoà Cư, xã Nhơn Ân, An Nhơn.
Năm Tân Mão-1891, Hồ Sĩ Tạo thi đậu cử nhân. Năm Quý Mão-1903, ông được bổ nhiệm làm Giáo thụ huyện Tuy Hoà. Năm Giáp Thìn-1904, ông đỗ Tam giáp đồng tiến sĩ. Năm Ất Tỵ-1905, ông làm Tri huyện Tân Định, nay là huyện Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà.
Năm 1908, phong trào chống thuế dâng lên mạnh mẽ khắp nơi trong nước. Tại tỉnh Bình Định, nhân dân các làng xã, tay không, chân đất, từng đoàn người cắt tóc ngắn, sôi sục kéo đến các phủ, huyện dưa đơn, đấu tranh đòi giảm sưu thuế. Tại Bồng Sơn, tên tri huyện gian ác bị đoàn biểu tình cột vào túi lưới giong đi suốt mấy ngày liền mới thả. Hoảng sợ trước phong trào chống thuế, bọn tổng lý và quan lại các phủ, huyện đều bỏ nhiệm sở chạy về thành Bình Định để nương thân.
Đoàn biểu tình ồ ạt kéo về tỉnh thành. Trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân đòi các quyền dân sinh chính đáng, Tiến sĩ Hoà Cư Hồ Sĩ Tạo đang về cư tang mẹ đã tự nguyện ở lại quê nhà tham gia phong trào chống thuế. Ông tổ chức cho hàng vạn người biểu tình bao vây tỉnh đường, lớp ngoài, lớp trong có trật tự, quy củ và không xảy ra manh động, kéo dài hàng chục ngày liền. Những người đi biểu tình đều gọi nhau là “Đồng bào” nên phong trào chống thuế còn được gọi là “Phong trào Đồng bào”.
Bọn quan lại đứng đầu tỉnh vô cùng hoảng sợ, khẩn cấp yêu cầu Triều đình Huế và Khâm sứ Trung kỳ cứu nguy. Thực dân Pháp phải điều động quân chính quy từ bắc vào đổ bộ lên Quy Nhơn, kéo lên thành Bình Định, phối hợp cùng quân cứu viện từ Quảng Ngãi vào, đàn áp dã man cuộc biểu tình. Hàng trăm người chết và bị thương. Ngày 26.4.1908, Pháp lại cử hai tên Giám binh người Pháp chỉ huy một đại đội lính khố đỏ tấn công ác liệt vào đoàn biểu tình tay không tấc sắt, giải vây cho thành Bình Định. Đoàn biểu tình liền toả về các vùng phụ cận truy bắt bọn tay sai gian ác ức hiếp dân lành.
Đến ngày 26.7.1908, phong trào chống thuế ở Bình Định hoàn toàn bị dập tắt. Thực dân Pháp bắt giam hơn 1.000 người trong đó có Tiến sĩ Hồ Sĩ Tạo. Ông bị kết án tử hình về tội cầm đầu dân nổi loạn. Nhờ có sự can thiệp của Tổng đốc Bình Định Bùi Xuân Quyến, nên Hồ Sĩ Tạo được hạ mức án xuống còn khổ sai chung thân và bị giam tại “nhà giam Tiến sĩ” tại thành Bình Định. Sau 12 năm bị tù đày, mãi đến năm 1920, Tiến sĩ Hồ Sĩ Tạo mới được ân xá.
Rời bỏ ghế quan trường, hoà cùng dân nghèo đi chân đất, cơm đùm, cơm vắt, trực tiếp tổ chức và chỉ huy cuộc biểu tình bao vây tỉnh thành Bình Định, đấu tranh chống thuế, Tiến sĩ Hồ Sĩ Tạo là một tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, thương dân, xứng đáng với sự tôn vinh “Ông là linh hồn“ của “Phong trào Đồng bào” Bình Định.
Danh nhân tôn giáo thời phong kiến
Hoà thượng Nguyễn Tấn Giao
Hoà thượng Nguyễn Tấn Giao có pháp danh là Phước Huệ, sinh năm 1869, quê làng Phú Thành, nay thuộc phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn. Năm 1881, ông xuất gia thọ giáo Hoà thượng Minh Lý trụ trì tổ đình Thập Tháp.
Năm 1894, nhà sư Nguyễn Tấn Giao trụ trì chùa Phổ Quang, nay thuộc xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước.
Năm 1896, nhà sư được Hoà thượng Giác Tiên và cư sĩ Lê Đình Thám mời ra Huế để dạy kinh giảng luận cho học tăng xứ Trung Kỳ tại chùa Trúc Lâm. Thỉnh thoảng, nhà sư được mời vào cung thuyết pháp.
Năm 1901, nhà sư được vua triệu vào cung ban bằng Tăng cang và cấp đạo điệp. Từ đó, nhà sư được tấn tôn lên làm Hoà thượng với pháp danh Phước Huệ.
Cũng trong năm 1901, Hoà thượng Phước Huệ được Tăng cang Vạn Thành liễu đạo và các môn đồ cung thỉnh về chùa Thập Tháp để kế vị.
Tháng giêng năm Ất Dậu, 1945, Hoà thượng viên tịch, thọ 76 tuổi đời, 64 tuổi đạo. Thi hài Hoà thượng được an táng tại khuôn viên chùa Thập Tháp..
Hoà thượng Mật Hoằng
Ông họ Nguyễn, pháp hiệu là Mật Hoằng, sinh năm Giáp Dần, 1734, quê huyện Phù Ly, phủ Hoài Nhơn, nay là huyện Phù Cát.
Ông xuất gia năm 14 tuổi, tu tại chùa Đại Giác ở Gia Định. Đến năm Quý Tỵ, 1773, ông ra Phú Xuân tu ở chùa Quốc Ân (chùa Thập Tháp, chùa Hà Trung và chùa Quốc Ân đều do nhà sư Nguyên Thiều sáng lập).
Năm Giáp Tuất, 1814, vua Gia long niên hiệu thứ 13 ban cho Hoà thượng Mật Hoằng chức Tăng cang.
Đến đời vua Minh Mạng, Hoà thượng được mời vào cung thuyết pháp cho Hoàng thượng và tam cung nghe.
Năm Ất Mùi, niên hiệu Minh Mạng thứ 16, 1835, Hoà thượng Mật Hoằng viên tịch, hưởng thọ 101 tuổi, hành trì Phật pháp 87 năm..
Hoà thượng Nguyễn Trọng Khải
Hoà thượng sinh năm 1876 tại làng Háo Đức, nay thuộc Nhơn An, thị xã An Nhơn. Năm 1896, ông lấy vợ người làng An Hoà, nay thuộc Nhơn Khánh, An Nhơn. Năm 1907, ông thi đỗ tú tài, đến năm 1910, lại thi đỗ tú tài lần nữa tại Trường thi Bình Định.
Năm 1916, vợ ông qua đời để lại ba người con, có một trai, ông vô cùng buồn rầu. Năm 1919, ông đến chùa Thạch Sơn xin thọ giáo Hòa thượng Hồng Thạc. Năm 1926, Hoà thượng Lê Khánh Hoà ra chùa Long Khánh (Quy Nhơn) gặp nhà sư Trọng Khải và mời ông vào chùa Linh Sơn (Sài Gòn) chung lo việc chấn hưng Phật pháp.
Năm 1931, ông cùng Hoà thượng Khánh Hoà đứng ra thành lập Hội Nam kỳ nghiên cứu Phật học. Cũng trong năm này, ông trở lại quê nhà làm vị Yết ma Hoà thượng tại chùa Gia Khánh, phủ Tuy Phước. Từ đây pháp danh Trí Hải của ông được đông đảo tín đồ Phật giáo nhắc đến.
Cuối năm 1931, ông lại vào Nam làm Chủ bút tờ nguyệt san Từ Bi Âm là cơ quan hoằng pháp của Hội Nam kỳ nghiên cứu Phật học (báo này ra đời từ 1932 đến năm 1938 thì đình bản).
Năm 1932, Hoà thượng Nguyễn Trọng Khải lại về quê xây dựng chùa Bích Liên. Năm 1939, Hoà thượng giảng dạy đạo Phật tại chùa Long Khánh.
Từ sau ngày Cách mạng tháng 8.1945 thành công đến năm 1950, Hoà thượng Nguyễn Trọng Khải hành đạo tại chùa Bích Liên và viên tịch vào ngày mùng 3 tháng 6 năm Canh Đần, 1950, hưởng thọ 73 tuổi. Hoà thượng được an táng trong một ngôi tháp nằm trong khuôn viên chùa Bích Liên.
Hoà thượng Nguyễn Trọng Khải vừa là một nhà chân tu, vừa là một nhà nho, học rộng nên đã có những đóng góp đáng kể vào việc chấn hưng Phật học nước nhà.
Thiền sư Nguyên Thiều
Ông họ Tạ, quê ở Trinh Hương, Triều Châu, Quảng Châu, Trung Quốc. Ông xuất gia năm 19 tuổi tu ở chùa Bảo Tư.
Năm Ất Tỵ-1665, đời Lê Huyền Tôn, thời chúa Nguyễn Phúc Thuần ở phương Nam, ông theo tàu buôn qua An Nam, trú tại phủ Quy Nhơn (nay là tỉnh Bình Định). Ông lập chùa Thập Tháp Di Đà, mở trường truyền dạy Phật học, sau đó ra Phú Xuân lập chùa Hà Trung và chùa Quốc Ân.
Ngài viên tịch ngày 19 tháng 10, niên hiệu Bảo Thái thứ 10 thời nhà Lê. Hài cốt Ngài được chôn cất ở tháp Hoá Môn thuộc xóm Thuận Hoá, làng Dương Xuân Thượng.
Thiền sư Nguyên Thiều là người có công rất lớn trong việc xây dựng chùa chiền, phát triển Phật giáo ở Đàng Trong thời các chúa Nguyễn..
Linh mục Đặng Đức Tuấn
Đặng Đức Tuấn sinh năm Bính Dần, 1806, tại làng Quy Hoà, huyện Bồng Sơn nay là thôn Quy Thuận, xã Hoài Châu, huyện Hoài Nhơn. Ông vốn dòng dõi Đặng Đức Siêu, một danh thần triều Nguyễn. Ông thi Hương qua được trường nhì, đến trường ba thì bị hỏng.
Ông được Chủng viện Pénang ở Mã Lai nhận vào dạy chữ Hán. Tại đây, ông được học thêm các ngoại ngữ Anh, Pháp, La Tinh. Ông ở Mã Lai 7 năm, tu trong một chủng viện, được học thêm về thần học và triết học.
Khi ông về nước thì được thụ phong chức Giám mục cai quản nhà thờ Gò Thị, nay thuộc thôn Xuân Phương, xã Phước Sơn, huyện Tuy Phước. Ít lâu sau, ông được bổ ra cai quản địa sở Châu Me, Trung Tín ở Quảng Ngãi trên 5 năm.
Ngày 28.2.1861, đồn Kỳ Hoà bị liên quân Pháp, Tây Ban Nha chiếm, tiếp đó, các tỉnh Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Long bị mất. Vua Tự Đức cử một phái đoàn do Phan Thanh Giảng làm Chánh sứ, Lâm Duy Hiệp làm Phó sứ và Đặng Đức Tuấn làm Thông ngôn vào Nam Kỳ đàm phán.
Ta thế yếu, hơn nữa thực dân Pháp âm mưu thâm độc, nên ta buộc phải ký hoà ước giao ba tỉnh đông Nam Kỳ cho Pháp. Hoà ước ký ngày mùng 9 tháng 5 năm Nhâm Tuất, nhằm ngày 6.5.1862.
Sau sự kiện nầy, Đặng Đức Tuấn về lại địa sở Tân Lộc ở Quảng Ngãi, Hoà Mục ở Phù Cát và Nước Nhỉ ở Phù Mỹ (nay thuộc thôn Chánh Khoan, xã Mỹ Lợi).
Ngày 11.6.1874, Linh mục Đặng Đức Tuấn tạ thế tại nhà thờ Nước Nhỉ, hưởng thọ 68 tuổi, mộ phần chôn tại đây.
Danh nhân triều Nguyễn
Đồng Sĩ Bình
Đồng Sĩ Bình, quê thôn Mậu Tài, xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Mới 22 tuổi ông đã tinh thông cả Hán văn lẫn Pháp văn.
Ông làm Thông phán tại toà Khâm sứ Huế, sau đổi về toà Công sứ Quy Nhơn. Vốn có tinh thần yêu nước nên ông rất kính phục các chiến sĩ Cần Vương. Ông đã cùng nhiều người bạn tri ký lên truy điệu tại phần mộ Mai Xuân Thưởng và gửi hai câu đối thờ rất trân trọng, tôn vinh vị Lãnh tụ phong trào Cần Vương Bình Định: “Bại trận nhi bất hàng, hùng tâm phiêu vũ trụ, đáo để chiến công lực kiệt, binh tận thế cô, túng sử quốc vận phương long, liệt sĩ hổ cam hàm hận huyết; Đoạn đầu do năng tiếu, nghĩa khí quán càn khôn, tự lai chuyên chế vân loa, nhân vong sự một, ná thức thế tâm mạc đạm, hậu sanh thương vị hích kỳ danh“ (Bại trận quyết không hàng, khí hùng bay vũ trụ, dù hơi tàn lực kiệt, binh tàn thế tận, nếu vận nước chưa suy, liệt sĩ há đành ôm mối hận; Đầu rơi còn cười cợt, nghĩa khí rạng đất trời, mặc xiềng xích bủa giăng, người mất, việc không, hay chăng nông nổi ấy, mai sau ai đã rõ nguồn cơn).
Thực dân Pháp biết được, cho bắt giam Đồng Sĩ Bình tại nhà lao Bình Định và giao cho quan lại Nam triều xét hỏi. Mến tài đức người thanh niên yêu nước ở lứa tuổi con mình, quan Tổng đốc Bình Định Nguyễn Đình Hiến cho người nhà hàng ngày mang cơm nước để Đồng Sĩ Bình ăn uống. Lúc rảnh rỗi, quan Tổng Đốc lại đến nhà giam hay sai người đưa vị chí sĩ trẻ vào tư dinh, cùng nhau đàm luận văn chương, thế sự. Trên công đường, mỗi lần đọc lời khai bằng chữ Hán của Đồng Sĩ Bình, quan Tổng đốc tấm tắc khen hay, cao hứng cầm bút khuyên liên tiếp vào lời khai làm đỏ cả mấy trang, sau đó Nguyễn Đình Hiến phải nhờ Đồng Sĩ Bình viết lại để đưa vào hồ sơ xét xử.
Năm 1927, Đồng Sĩ Bình từ nhiệm để hoạt động cách mạng, chống thực dân, mưu cầu độc lập cho nước nhà. Ông bị kết án 9 năm tù khổ sai và đày lên Buôn Ma Thuột. Ông đề thơ mỉa mai: “Viết hai chữ cách mạng, tù chín năm khổ sai. Ký giấy bán dân nước, án ấy mấy vạn ngày?”.
Là một Phán sự toà Khâm sứ và toà Công sứ Pháp, vừa thông thạo Tây học, vừa sâu sắc Hán học, Đồng Sĩ Bình không màng phú quý, vinh hoa, bỏ chức quan đi hoạt động cách mạng vì nước, vì dân. Ông là một tấm gương sáng về ý thức tự tôn dân tộc, về tinh thần yêu nước, tinh thần đấu tranh cách mạng để các thế hệ noi theo.
Lê Đại Cang
Lê Đại Cang còn gọi là Lê Đại Cương, sinh năm 1771 tại làng Luật Chánh, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước.
Năm 1802, ông được bổ nhiệm làm Tri huyện Tuy Viễn, sau đó giữ các chức Hiệp trấn Sơn Tây (1822), Cai bạ Quảng Nam, Cai bạ Vĩnh Long, Tham tri bộ Binh (1829).
Năm 1832, Lê Đại Cang giữ chức Thượng thư bộ Binh kiêm Hữu đô Ngự sử. Năm 1833, ông làm Tổng đốc Sơn Tây kiêm Lãnh binh Hà Nội, Ninh Bình. Sau đó, ông được điều vào Nam làm Tổng đốc An Hà. Lê Văn Khôi khởi nghĩa, thành Gia Định bị thất thủ, ông bị cách chức. Ít lâu sau, ông được phục chức làm Viên Ngoại lang, lãnh Án sát An Giang.
Năm 1834-1835, ông được thăng Tuần phủ An Hà, rồi làm Trấn Tây Tham tán đại thần. Ông không hoàn thành nhiệm vụ mới đầy khó khăn nên bị cách chức, xuống làm lính tại quân thứ Hải Đông. Năm 1841, ông được phục chức làm Bố chánh Hà Nội, được ít lâu thì ông về hưu.
Cuối đời, ông đi tu, sáng lập ra chùa Giác Am, lấy pháp danh là Giác Am cư sĩ, sau đổi là Trương Giác.
Ông còn là một nhà văn đương thời với các tác phẩm: Nam hành, Tục Nam hành, Tỉnh ngu thi tập.
Ông mất năm 1847, hưởng thọ 76 tuổi..
Võ Xuân Cẩn
Võ Xuân Cẩn quê tỉnh Quảng Bình. Ông là nhạc phụ của vua Tự Đức.
Năm 1813, Võ Xuân Cẩn được bổ nhiệm làm Cai bạ tỉnh Bình Định. Tháng 4 năm Giáp Ngọ 1838, ông giữ chức Tổng đốc Bình Phú. Khi về Triều làm Thượng thư bộ Hình kiêm Đô Sát viện, Võ Xuân Cẩn đã trình tấu và thuyết phục vua Minh Mạng cho lập lại địa bạ tỉnh Bình Định, thay vì địa bạ lập năm 1814 nay không còn phù hợp.
Năm 1839, Võ Xuân Cẩn được Triều đình Huế đặc phái về Bình Định trực tiếp chỉ đạo thực thi quân điền. Phàm những ai có ruộng tư, kể cả quan lại, đều bị chia làm hai phần, lấy một nửa sung vào công điền quân cấp cho mọi người dân. Sau 3 tháng thực hiện, đến tháng 12 năm 1839 thì hoàn thành chính sách quân cấp công điền ở Bình Định. Tuy nhiên, chính sách đúng đắn nói trên đã bị bọn có quyền thế làm sai lệch. Rốt cuộc, người nghèo chỉ được nhận ruộng đất xấu, bạc màu; ruộng đất màu mỡ thuộc về những kẻ giàu có.
Võ Xuân Cẩn làm quan đến năm Nhâm Tý-1852 thì về hưu, lúc 80 tuổi. Ông được vua Tự Đức khen tặng hai câu thơ: ”Thiên hạ trung dung suy Bá Thý. Thế gian đức vọng trọng Văn Công”.
Trần Văn Chánh
Trần Văn Chánh sinh năm Tân Tý, 1821, quê làng Linh Chiểu, huyện Bồng Sơn, nay là thôn Linh Chiểu, xã Ân Phong, huyện Hoài Ân. Ông đậu giải nguyên năm Canh Tý-1840, tại Trường Thi Thùa Thiên; đậu tiến sĩ năm Tân Sửu-1841, lúc 21 tuổi. Ông làm quan giữ chức Tri phủ, sau đó bị cách chức. Thời làm quan, ông đã làm được nhiều điều ích nước, lợi dân, nên khi ông qua đời, Triều đình phục hàm Biên Tu cho ông. Nhân dân Linh Chiểu lập đền thờ ông.
Lê Văn Chân
Lê Văn Chân sinh năm Đinh Sửu,1817. Ông quê làng Trà Lam (nay thuộc thôn Phú Thiện, xã Mỹ Hoà, huyện Phù Mỹ).Ông đậu cử nhân năm 1834 tại Trường Thi Thừa Thiên; đậu tiến sĩ năm 1835, lúc 18 tuổi. Triều Nguyễn mở khoa thi Hội từ năm 1822 đến năm 1919, Lê Văn Chân là vị tiến sĩ đầu tiên của tỉnh Bình Định và là vị tiến sĩ trẻ nhất nước thời bấy giờ. Lê Văn Chân được “Quốc triều Hương khoa lục” khen là “Thiếu tuấn nhất nhân”.
Ông làm quan giữ chức Tuần phủ Hưng Yên.
Ngô Tùng Châu
Ngô Tùng Châu quê huyện Phù Cát là văn thần của chúa Nguyễn Ánh.
Ngô Tùng Châu làm Chế Các ở Viện Hàn lâm, sau làm Điền Tuần quan coi việc khai khẩn ruộng đất. Khi Nguyễn Ánh xưng vương ở Gia Định, ông được thăng làm Tham tri bộ Lễ, kiêm việc dạy dỗ con lớn của Nguyễn Ánh
Năm Kỷ Mùi-1799, ông phụ tá Võ Tánh trấn thủ thành Bình Định, năm sau bị các đại tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng vây thành. Trong thành, lương thực cạn kiệt, thấy không thể chống lại quân Tây Sơn, ngày 27 tháng 5 năm Tân Dậu (nhằm ngày 7/7/1801 dương lịch), ông uống thuốc độc tự tử. Hai hôm sau, Võ Tánh lên giàn hoả tự thiêu. Quân Tây Sơn chiếm lại thành Bình Định.
Năm 1802, vua Gia Long truy tặng Ngô Tùng Châu là Tán Trị công thần Đặc tiến Kim từ Vĩnh Lộc đại phu, Trụ quốc Thái Sư và cho xây lăng mộ ông và Võ Tánh gần thành Bình Định. Về sau, vua Minh Mạng gia phong ông là Tá Vận công thần, Hiệp tá Đại Học sĩ, Thiếu Sư, Ninh Hoà Quận công.
Đào Phan Duân
Đào Phan Duân hiệu là Biểu Xuyên, sinh năm 1864 tại làng Biểu Chánh, nay thuộc xã Phước Hưng, huyện Tuy Phước.
Thuở nhỏ, Đào Phan Duân theo học cụ Cử nhân Lê Thân có một thời làm Đốc học tỉnh Bình Định. Đào Phan Duân đậu cử nhân năm Giáp Ngọ-1894, Thành Thái thứ 6, tại Trường Thi Bình Định. Năm sau, ông ra Huế thi Hội đậu phó bảng.
Ông được bổ nhiệm giữ chức Đốc học tỉnh Phú Yên, Án sát tỉnh Nghệ An, Phủ doãn tỉnh Thừa Thiên và Tuần phủ tỉnh Khánh Hoà.
Khi làm Tuần phủ tỉnh Khánh Hoà, ông Tuần Biểu Chánh bị viên Công sứ Pháp yêu cầu phải bắt những người có tư tưởng chống Pháp đem giao nộp cho chính quyền bảo hộ. Quan Tuần phủ lấy lý do không có đủ chứng cứ nên không thi hành. Viên Công sứ giận dữ, hùng hổ đến dinh Tuần phủ nạt nộ, thoá mạ Đào Phan Duân. Ông đứng dậy, giơ tay định tát viên Công sứ, nhưng mấy người đứng cạnh đã kịp can ngăn. Sau vụ nầy, Toàn quyền Đông Dương khôn khéo điều Công sứ Khánh Hoà đi tỉnh khác; vua Khải Định thăng hàm Tổng đốc cho Đào Phan Duân và cho ông về hưu.
Hưởng ứng phong trào cải cách dân chủ những năm 1921-1924, Đào Phan Duân vận động thành lập Phước An Thương hội vào năm 1924 nhằm mục đích chủ yếu là nhen nhóm ý thức tự cường dân tộc, còn hiệu quả kinh doanh được chừng nào hay chừng ấy “vì chưa mong gì tranh lại mối lợi từ tay người nước ngoài”. Điều hành hoạt động của Thương hội là Ban Quản trị gồm một Trưởng ban, một Phó trưởng ban, một Thư ký kiêm Kế toán và một Kiểm soát viên do các cổ đông bầu cử. Cụ Tuần Biểu Chánh là một cổ đông và là cố vấn tối cao của Phước An Thương hội. Ông chủ trương từng bước xây dựng cơ sở tài chính vững mạnh để hỗ trợ phong trào và các tổ chức yêu nước, cấp học bổng cho con em Bình Định học giỏi đi du học nước ngoài. Để mở rộng ảnh hưởng, ngoài Quy Nhơn, Phước An Thương hội còn lập thêm các chi nhánh ở Tuy Phước, Gia Lai, Kon Tum.
Cụ Tuần Biểu Chánh là một ông quan yêu nước, có tinh thần tự tôn dân tộc và có tư tưởng cải cách dân chủ nên rất được các nhân sĩ đương thời kính trọng.
Năm 1947, tại trụ sở Ủy ban Hành chánh huyện Phù Cát, Phó bảng Đào Phan Duân được gặp cụ Huỳnh Thúc Kháng lúc bấy giờ là Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Cụ Huỳnh không chịu ngồi cùng Phó bảng mà đứng cạnh hầu chuyện theo đạo thầy trò. Cụ Huỳnh cho biết cụ Đào là giám khảo khoa thi mà cụ là thí sinh khoa ấy.
Nguyễn Thị Định
Bà Nguyễn Thị Định, thân mẫu nhà vua yêu nước Duy Tân, là một người con gái Bình Định, quê làng Kim Chua nay thuộc phường Nhơn Hưng, thị xã An Nhơn. Bà sinh năm Quý Mùi-1883. Năm 15 tuổi, bà được tiến vào cung dưới triều Thành Thái.
Là một cô gái duyên dáng, có nhan sắc, tính tình điềm đạm, cẩn trọng trong mọi công việc, nên bà Nguyễn Thị Định được giao nhiệm vụ hầu bên cạnh nhà vua, mài mực cho vua viết. Sau đó, bà sinh được Công chúa tên là Lương Nhàn và sinh thêm Hoàng tử thứ 5 tên là Vĩnh San (vua Duy Tân). Vua Thành Thái phong bà làm Tài nhân, vị thứ cuối cùng trong cửu giai (chín bậc) ở Hoàng cung.
Bà rất được vua Thành Thái thương mến, nhưng những khi nhà vua “nổi cơn tâm thần”, trước mặt bọn mật vụ Việt gian và thực dân Pháp, thì bà phải gánh chịu những sự hành hung, đánh đập, cấu xé, gây nên nhiều vết thương tích trên mí mắt, trên đầu và thậm chí ở cả hai vú có nốt ruồi hồng đã từng cho Hoàng tử Vĩnh San ôm bú. Mặc dù vậy, bà không hề than khóc, không hề oán ghét chồng, trái lại rất thương yêu, cảm phục chồng, vì bà hiếu rằng sở dĩ vua Thành Thái buộc phải giả khùng điên là cốt để che giấu những hành động yêu nước của ngài trước mặt bọn mật thám Tây đang rình rập.
Năm 1907, vua Thành Thái bị thực dân Pháp đày vào Vũng Tàu; bà Nguyễn Thị Định bị đưa lên giam lỏng ở An Lăng (lăng vua Dục Đức) ở chân núi Ngự Bình, xã An Cựu. Vua Thành Thái rất thương nhớ bà nên xin Pháp cho bà được vào sống cùng nhà vua. Năm 1916, con trai bà là vua Duy Tân khởi nghĩa chống Pháp không thành, bị Pháp bắt. Để trừ hậu hoạ, thực dân Pháp đưa cả gia đình vua Thành Thái và gia đình vua Duy Tân đày sang Réunion, một hòn đảo thuộc Pháp nằm trên Ấn Độ Dương. Bà cùng chồng con đành cam chịu kiếp tù đày nơi đảo xa.
Sống ở đảo Réunion một thời gian, bà Nguyễn Thị Định sinh thêm một Hoàng tử thứ 19 tên là Vĩnh Hoè. Cảm thấy sự có mặt của mẹ con bà là một gánh nặng cho đời sống kinh tế khó khăn của chồng đang bị tù đày, nên bà xin vua Thành Thái cho được ôm con về nước. Vua Thành Thái bằng lòng và chính quyền thực dân cũng đồng ý. Cùng về với bà có cô con dâu trẻ Mai Thị Vàng, Vương phi của vua Duy Tân.
Ba mẹ con bà về Huế tiếp tục cuộc sống bị giam lỏng ở An Lăng. Bà âm thầm chịu đựng cuộc sống vô cùng khó khăn, tủi nhục để nuôi dạy hai con là Công chúa Lương Nhàn và Hoàng tử Vĩnh Hoè trưởng thành. Đến khi Công chúa Lương Nhàn lên xe hoa của Trạng sư Vương Quang Nhường và Hoàng tử Vĩnh Hoè lập gia đình thì bà mới yên tâm ngồi tụng kinh niệm Phật, cầu nguyện cho gia đình và đất nước sớm được yên bình, độc lập.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhớ đến gia đình các ông vua yêu nước, đã cử Bộ trưởng Lê Văn Hiến vào Huế thăm và tặng quà cho Vương phi Mai Thị Vàng của vua Duy Tân. Từ ngày chồng và con bị thực dân Pháp lưu đày, đây là lần đầu tiên, bà Nguyễn Thị Định và gia đình được chính quyền cách mạng quan tâm thăm viếng, tặng quà. Bà rất xúc động và hứa luôn cầu nguyện cho Cụ Hồ mạnh khoẻ và nền độc lập của đất nước được trường tồn.
Nỗi mừng vui đến với bà Nguyễn Thị Định chưa được bao lâu thì cuối năm 1945, một tin sét đánh đã ập đến: con trai bà, vua Duy Tân đã chết trong một tai nạn máy bay ở Cộng hoà Trung Phi. Bà vô cùng đau đớn.
Vua Duy Tân mất, để lại một bầy con dại. Một mình bà vợ goá Fernand Entier người Pháp không thể nuôi nổi các con. Bà Nguyễn Thị Định nhờ ông Phò mã, chồng Công chúa Lương Nhàn làm luật sư yêu cầu chính phủ Pháp đưa các cháu nội của bà về nước. Các Hoàng tử Goerges Vĩnh San (sinh năm 1933), Claude Vĩnh San (sinh năm 1934) và Roger Vĩnh San (sinh năm 1938) về Sài Gòn tá túc tại nhà người cô ruột là Công chúa Lương Nhàn. Đến năm 1950, các Hoàng tử lai Tây không chịu nổi sự giáo dục khắt khe của người cô, nên đã xin phép trở lại với mẹ ở Réunion. Các cháu nội chia tay Bà chưa được bao lâu thì con trai Bà, Hoàng tử Vĩnh Hoè lâm bệnh mất. Con trai út ra đi chưa đầy hai năm thì năm 1954, vua Thành Thái qua đời, tiếp đến năm 1956, Công chúa Lương Nhàn vĩnh biệt bà để sum họp cùng cha, anh trai và em út tại chốn suối vàng. Nỗi đau chất chồng, bà đã gởi gắm nó vào mấy câu thơ: ”Con ơi, ruột mẹ ngấu như tương, Bảy nổi, ba chìm rất thảm thương. Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự, Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương!”.
Để quên đi những kỷ niệm đau buồn ở An Lăng, bà dời về ở tại một ngôi nhà dân, số 18/10, đường Âm Hồn trong thành Nội (nay là đường Lê Thánh Tôn). Năm 1971, bà từ trần. Con cháu đệ tứ chánh hệ Nguyễn Phúc Lộc đã an táng bà trong khu vực An Lăng, gần lăng mộ vua Thành Thái.
Nguyễn Đình Hiến
Nguyễn Đình Hiến không chỉ nổi tiếng là quan Tổng đốc Bình Phú luôn đem lại công bằng cho dân chúng, mà còn được nhân dân kính trọng vì ông có thiện cảm và đã tìm cách che chở những chiến sĩ yêu nước, chống Pháp.
Nguyễn Đình Hiến sinh năm 1872 tại làng Quế Lộc, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, là con một gia đình vọng tộc. Ông đậu á nguyên trong kỳ thi Hương năm 1900 tại Trường Thi Thừa Thiên; năm 1901 thi Hội, đậu phó bảng. Ông được tôn vinh là một trong Tứ tuyệt của xứ Quảng trong khoa thi Hương năm Thành Thái thứ 12, 1900, và là một trong Tứ kiệt gồm 4 vị cùng đỗ phó bảng trong kỳ thi Hội năm Thành Thái thứ 13, 1901. (Tứ tuyệt gồm có Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Đình Hiến, Phan Châu Trinh và Lê Bá Trình. Tứ kiệt là Phan Châu Trinh, Nguyễn Đình Hiến, Võ Vỹ, Nguyễn Mậu Hoán).
Nguyễn Đình Hiến làm quan từ Tri phủ, Quản đạo, Bố chánh, Tuần vũ, Phủ doãn đến Tổng đốc. Sau khi đậu phó bảng và làm quan một thời gian, năm 1906, ông được sang Pháp học chính trị và phong tục, nên tinh thông cả văn hoá phương Đông lẫn phương Tây. Cuối năm 1906, ông lãnh chức Tri huyện Hoài Nhơn, năm sau làm Tri huyện Phù Mỹ, năm 1908, thăng Tri phủ Hoài Nhơn. Thời làm Tri phủ Hoài Nhơn, ông từng thiết bàn thờ giữa thanh thiên bạch nhật đón tiễn hài cốt chí sĩ Trần Quý Cáp đưa từ Khánh Hoà về Quảng Nam, đi ngang qua lỵ sở của ông, bất chấp có thể bị Công sứ Pháp quở trách, Nam triều cách chức.
Nguyễn Đình Hiến được chính quyền thực dân-phong kiến đào tạo bài bản, hòng tạo ra một viên quan trung thành với chế độ. Vậy mà ông lại có cảm tình và nhiều mối quan hệ với các sĩ phu yêu nước, chống Pháp thời bấy giờ, kết thông gia với chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng.
Thời gian ông làm Tổng đốc Bình Phú, năm 1923, có người thanh niên yêu nước Đồng Sĩ Bình bị thực dân Pháp bắt giam tại nhà lao Bình Định, giao cho quan lại Nam triều xét hỏi. Mến mộ tinh thần yêu nước và tài đức của người chí sĩ trẻ họ Đồng ở lứa tuổi con mình, ông không đối xử Đồng Sĩ Bình như một tù nhân, mà coi như một vị khách văn chương. Hàng ngày ông cho người nhà mang cơm nước vào để Đồng Sĩ Bình ăn uống. Lúc rảnh rỗi, quan Tổng đốc đích thân tới nhà lao hay sai người đưa Đồng Sĩ Bình về tư dinh đàm đạo văn chương, thế sự. Trên công đường, mỗi lần đọc lời khai của người thanh niên yêu nước, quan Tổng đốc tấm tắc khen hay, cao hứng, lấy bút khuyên liên tiếp vào lời khai làm đỏ cả mấy trang giấy, phải nhờ Đồng Sĩ Bình viết lại để đưa vào hồ sơ xét hỏi. Được tin Tổng đốc Bình Phú có cảm tình với người tù mang trọng án chống Pháp, Công sứ Quy Nhơn gởi thư khiển trách, nhưng Nguyễn Đình Hiến làm ngơ, xem như không biết. Công sứ Pháp sợ quan Tổng đốc tìm cách tha tội cho Đồng Sĩ Bình nên mật báo lên Khâm sứ Trung Kỳ buộc Triều đình Huế phải điều Nguyễn Đình Hiến về kinh.
Tổng đốc Nguyễn Đình Hiến còn có công lớn trong việc phát hiện và chỉ đạo xét xử một vụ án rất nổi tiếng được lưu truyền bằng một bài vè phổ biến khắp miền Nam Trung Kỳ. Đó là vụ án Thông Tằm. Thông Tằm là một viên Thông sự của sở nuôi tằm Bình Định tên là Trần Ngọc Dư. Ông bị bệnh nằm ở nhà thương Quy Nhơn. Vợ ông từ quê xuống Quy Nhơn thăm chồng. Bà đi xe kéo vào ban đêm. Dọc đường, đến gần cầu Bà Di, bọn cướp đồng mưu với tên xe kéo giết bà, lấy tất cả đồ nữ trang rồi đem xác bà chôn ở làng Phong Niên trên đường đi Quy Nhơn. Tri phủ Tuy Phước định ém nhẹm vụ cướp của, giết người nầy. Nhưng quan Tổng đốc Bình Phú kiên quyết sai người tìm chỗ chôn xác bà vợ Thông Tằm và cho quật mồ lên để khám nghiệm tử thi. Vụ án được phát giác và xét xử nghiêm minh. Nhân dân Bình Phú vô cùng kính phục quan Tổng đốc có lòng thương dân, giữ nghiêm phép nước.
Năm 1928, Bảo Đại thứ ba, Nguyễn Đình Hiến được thăng Hiệp tá Đại học sĩ. Sau đó, ông xin về trí sĩ.
Ông qua đời ngày 17.3.1947, hưởng thọ 75 tuổi.
Nguyễn Thế Hiển
Nguyễn Thế Hiển sinh năm Quý Mùi - 1823, tại làng Phụng Sơn, nay thuộc xã Phước Sơn, huyện Tuy Phước.
Ông rất thông minh, học giỏi, nhưng vì nhà rất nghèo nên ông thường đi thi mướn để có tiền sinh sống qua ngày.
Vì là con nhà nghèo, ông rất gần gũi nhân dân lao động, nên được mọi người tin yêu. Ông tích cực bài trừ mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội; khuyên đồng bào phải ăn ở cần, kiệm.
Năm Tự Đức thứ 12, tức năm 1859, ông ra sức vận động những người có tiền của mua Nghĩa điền và lập Nghĩa thương để giúp đỡ dân nghèo trong làng. Cuộc vận động đã được mọi người nhiệt liệt hoan nghênh và hăng hái hưởng ứng, tham gia. Những năm mất mùa, đói kém, làng xuất lương thực của Nghĩa điền, Nghĩa thương để chi cho cứu tế và làm việc thiện.
Năm 1863, Tự Đức thứ 16, Triều đình triệu tập Nguyễn Thế Hiển về kinh để sát vấn. Lúc đầu, ông đệ đơn tìm cách từ chối. Nhưng quan tỉnh không dám chấp nhận đơn ông, nên Nguyễn Thế Hiển đành phải về kinh. Sau khi Bộ Lại sát vấn, ông được nhận hàm Hàn Lâm viện Cung phụng; về sau ông được sung chức Tri phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Ông làm quan được ba tháng rồi cáo bệnh xin về quê.
Ngày mùng 6 tháng 10 năm Tân Mùi-1871, ông qua đời, hưởng dương 42 tuổi. Vô cùng cảm phục và thương tiếc Nguyễn Thế Hiển, dân làng Phụng Sơn lập miếu Nghĩa Tự để thờ ông.
Tấm gương sáng về lòng nhân ái và ý thức cộng đồng của Nguyễn Thế Hiến rất đáng được người đời sau noi theo.
Võ Văn Hiệu
Võ Văn Hiệu sinh năm 1811, quê làng Kiên Lao, huyện Tuy Viễn, nay là thôn Thuận Hạnh, xã Bình Nghi, huyện Tây Sơn. Ông đậu cử nhân năm Bính Ngọ-1846; đậu tiến sĩ năm Đinh Mùi-1847, và được sơ bổ Hàn Lâm viện Biên tu.
Năm 1849, ông được thăng chức Tri phủ Tuy Biên. Tuy Biên thời ấy, trật tự an ninh lộn xộn, nạn trộm cướp hoành hành. Võ Văn Hiệu chọn người công minh giao việc, ban bố luật pháp đến từng thôn xóm, tổ chức tuần tra canh gác nghiêm ngặt, truy bắt tận gốc, xử phạt nghiêm minh bọn trộm cướp, giải quyết triệt để các vụ kiện cáo. Nhờ phong cách làm việc tận tuỵ, sâu sát, hiệu quả của quan Tri phủ, tình hình Tuy Biên trở nên yên ổn. Ông được vua Tự Đức khen thưởng “ ngân tiền ”, Năm 1852, ông về kinh giữ chức Ngự sử. Cũng trong năm ấy, dân Ba Xuyên nổi loạn, Triều đình điều ông về làm Tri huyện Ba Xuyên khôi phục tình hình an ninh trật tự, bảo đảm nhân dân an cư, lạc nghiệp.
Cha ông qua đời, ông phải về quê nhà cư tang. Năm 1854, nhân dân Ba Xuyên thỉnh cầu vua Tự Đức cho ông tái nhiệm Tri phủ Ba Xuyên. Ông vừa đến nhận nhiệm sở thì đột tử, hưởng dương 43 tuổi.
Lâm Duy Hiệp
Tên thật là Lâm Duy Nghĩa (có sách chép là Lâm Duy Thiếp), sinh năm 1806 tại huyện Tuy Viễn, nay thuộc An Nhơn.
Năm 1828, Lâm Duy Hiệp thi đậu cử nhân, được sơ bổ làm Tri huyện. Năm 1859, ông được thăng Cơ Mật viện Đại thần, Thượng thư bộ Binh. Năm Nhâm Tuất-1862, ông làm Phó Sứ cùng Chánh Sứ Phan Thanh Giảng đàm phán với thực dân Pháp. Giặc Pháp gây sức ép và dùng thủ đoạn xảo quyệt buộc Phan Thanh Giảng phải ký Hoà ước ngày 5.6.1862 giao ba tỉnh miền đông Nam kỳ cho chúng.
Nhân dân coi Hoà ước trên là một hàng ước nhục nhã, nên đã kết tội “Phan, Lâm mãi quốc, Triều đình khí dân”. Phan Thanh Giảng bị giáng làm Tổng đốc Vĩnh Long, Lâm Duy Hiệp bị giáng làm Tuần phủ Thuận Khánh. Tuy vậy, Triều đình Huế vẫn ra lệnh buộc hai ông phải thương thuyết lại với Pháp, nhưng bị thất bại.
Lâm Duy Hiệp buồn rầu lâm bệnh mất năm 1863, hưởng dương 57 tuổi. Vua Tự Đức ban đồ khâm liệm và truyền đưa linh cữu ông về quê mai táng.
Năm 1868, Tự Đức truy cách cả chức tước của Lâm Duy Hiệp. Năm 1885, Đồng Khánh khôi phục hàm Binh bộ Thị lang cho ông.
Nguyễn Diêu
Người Bình Định quen gọi Nguyễn Diêu với cái tên đầy mến phục và thân thương: Cụ Tú Nhơn Ân. Nguyễn Diêu quê làng (thôn) Nhơn Ân, xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước. Ông đỗ tú tài khoa Canh Thân-1860. Nguyễn Diêu là người văn hay, chữ tốt, học rộng, biết nhiều, nhưng nhiều lần thi cử nhân không đỗ
Lận đận về thi cử không thành đạt, về tình duyên không trọn vẹn, cụ Tú Nhơn Ân bước vào nghiên cứu kinh Phật, mở trường dạy học. Môn sinh của cụ Tú rất đông, lắm người thành đạt, trong đó có Đào Tấn làm quan đến chức Thượng thư. Khi giảng dạy, Nguyễn Diêu luôn khuyên bảo học trò: Muốn viết được một áng văn hay, phải nắm vững mấy điểm sau: Một là, đọc nhiều sách như ong lấy cái tinh nhuỵ của hoa để làm mật vậy. Đọc có tuyển chọn chớ không nên cố chấp theo ý của người xưa. Hai là, phải từng trải nhiều. Núi sông hùng vĩ, cảnh vật hữu tình, những cảm xúc trên đường có thể gây cảm hứng cho ta nhiều lắm. Ba là, phải gian khổ, công phu xây dựng ý. Bốn là, phải di dưỡng tính tình. Nếu không có điều hay thì trí óc và sức lực sẽ cạn đi, có còn cảm xúc đâu mà tạo thành một tác phẩm hay được. Năm là, nếu dùng văn để mưu giàu sang thì tinh thần sẽ tối tăm, ý tứ sẽ mê muội, tâm hồn sẽ mệt mỏi, chỉ có hại mà không có lợi chút nào.
Năm 1885, Pháp chiếm kinh thành Huế, vua Hàm Nghi bôn đào ra hịch Cần Vương kêu gọi toàn dân đứng lên chống Pháp. Lúc ấy, Nguyễn Diêu tuổi cao, sức yếu, không thể gia nhập nghĩa quân mà chỉ làm thơ kêu gọi thanh niên tòng quân giết giặc.
Về văn nghiệp, Cụ Tú Nhơn Ân còn để lại một số thơ chữ nôm, bài phú Hàn sĩ vịnh, vở tuồng hát Bội Ngũ hổ bình Tây.
Đào Tấn
Đào Tấn, tên đầy đủ là Đào Đăng Tấn, tự là Chỉ Thúc, hiệu là Tô Giang, Mai Tăng, Mộng Mai, thuộc dòng dõi Lộc Khê hầu Đào Duy Từ. Đào Tấn sinh năm 1845 tại làng Tùng Giảng, nhưng nguyên quán lại là làng Vĩnh Thạnh, nay thuộc xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước. Cha ông là lương y Đào Đức Ngạc nổi tiếng; mẹ ông tên là Hà Thị Loan. Khi còn nhỏ, ông theo học cụ Tú Nhơn Ân tên là Nguyễn Diêu hay chữ nổi tiếng. Năm 22 tuổi, ông là một trong số 18 người đổ cử nhân khoa thi Hương Đinh Mão, 1867, tại Trường Thi Bình Định. Bốn năm sau, năm Tự Đức thứ 24, 1871, Đào Tấn được sơ bổ Điền Tịch, công tác tại Hiệu thư Nội các, sau đó, thăng tiến rất nhanh: năm 1874 làm Tri phủ Quảng Trạch (Quảng Bình); năm 1882, làm Phủ doãn Thừa Thiên; ông đã ra lệnh bắt chém bồi Ba, một tên bồi của Khâm sứ Trung Kỳ phạm tội hiếp bóc dân lành. Khi làm Hiệu thư Nội các và Phủ doãn Thừa Thiên, ông thường cùng Tự Đức bàn luận văn chương, vua tôi rất tâm đắc.
Thực dân Pháp tiến hành xâm chiến nước ta, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, nhân dân trong Nam, ngoài Bắc do Văn thân lãnh đạo, sục sôi đứng lên chống Pháp. Là người mang nặng tư tưởng trung quân nhưng Đào Tấn dường như muốn tìm cách lẩn tránh không tham gia cuộc chiến chống thực dân Pháp, nên ông xin từ quan để về phụng dưỡng cha mẹ già yếu, song không được chấp nhận. Mãi đến khi cha mất, ông mới được phép về quê. Lúc nầy phong trào Cần Vương Bình Định phát triển mạnh mẽ, nhưng Đào Tấn vẫn đứng ngoài cuộc, từ chối lời mời tham gia phong trào của nghĩa quân và lên chùa Linh Phong ở ẩn. Đồng Khánh lên ngôi, vốn là bạn cố tri với Đào Tấn, vua lập tức cho mời ông tiếp tục tham chính, lần lượt giữ các chức Tổng đốc An-Tĩnh (Nghệ An-Hà Tĩnh) năm 1889, Công bộ Thượng thư năm 1894, Binh bộ Thượng thư năm 1896, Hình bộ Thượng thư năm 1897.
Khi giữ chức Tổng đốc An Tĩnh, cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng nổ ra năm 1885 đang phát triển mạnh tại Nghệ An, Hà Tĩnh, nhưng Đào Tấn làm lơ. Năm 1894, khi nghe Phan Đình Phùng tạ thế (1896), Đào Tấn có làm thơ khóc và tỏ lòng thương tiếc Phan chí sĩ. Năm 1898, khi giữ chức Tổng đốc An Tĩnh lần thứ hai (1898-1902), ông đã che chở cho Phan Bội Châu và Phan Bá Ngọc (con Phan Đình Phùng) khỏi bị bắt sau khi kế hoạch đánh úp thành Nghệ An bị bại lộ. Năm 1902, khi giữ chức Thượng Thư bộ Công, Đào Tấn đã cấp giấy thông hành cho Phan Bội Châu ra Bắc yết kiến Hoàng Hoa Thám.
Năm Giáp Thìn, 1904, Nguyễn Thân tìm cách gây sự với Đào Thượng thư, ông xin vua Thành Thái cho về hưu, và được nhà vua cho giữ nguyên hàm.
Những năm cuối đời, xa lánh chốn quan trường, Đào Tấn miệt mài sáng tác thơ văn, soạn tuồng hát Bội. Tổng cộng, ông đã sáng tác trên 30 vở tuồng, trong đó có nhiều vở xuất sắc như Cổ thành, Quan Công quá quan, Hoàng Phi Hổ quá quan, Trầm hương các, Hộ sinh đàn, Khuê các anh hùng… Trong lịch sử Tuồng Việt Nam, Đào Tấn là tác giả viết nhiều nhất và có chất lượng cao nhất, xứng được hậu thế suy tôn là “Hậu Tổ” của nghệ thuật Tuồng nước ta. Ngoài ra, ông còn để lại cho đời sau hàng ngàn bài thơ, từ có giá trị được ghi chép trong các tập Mộng Mai ngâm thảo, Mộng Mai thi tồn, Mộng Mai từ lục, Mộng Mai văn sao.
Đào Tấn tạ thế ngày 23.8.1907, nhằm rằm tháng bảy năm Đinh Mùi, hưởng thọ 63 tuổi. Mộ ông lập tại núi Hoàng Mai, xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước.
Nguyễn Văn Hiển
Nguyễn Văn Hiển, tên thường gọi là Hoàng giáp Vĩnh Ân. Ông sinh năm Đinh Hợi, 1827, tại xã Mỹ Chính, huyện Hải Lăng, nay là huyện Triệu Hải, tỉnh Quảng Trị. Biệt hiệu ông là Doãn Trai, tác giả Đồ Bàn thành kỹ.
Ông đậu cử nhân năm Bính Ngọ-1846. Năm 21 tuổi, khoa thi Đinh Mùi- 1847, Thiệu Trị thứ 7, ông đậu Hội nguyên đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, đứng sau tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa), gọi là Hoàng giáp.
Lúc đầu, ông được bổ chức Hàn Lâm viện Tu soạn, thăng Thị độc. Có một thời gian, ông làm Án sát tỉnh Quảng Ngãi, rồi thăng Tuyên Phủ sứ đạo Phú Yên. Năm 1860, ông làm Đốc học tỉnh Bình Định. Khi làm quan ở Bình Định, ông đưa cả gia đình về lập nghiệp tại làng Vĩnh Ân, nay thuộc xã Cát Hanh, huyện Phù Cát.
Thời gian làm Đốc học Bình Định, Nguyễn Văn Hiển đã viết một tác phẩm nổi tiếng là Đồ Bàn thành ký còn lưu đến hôm nay. Trong dân gian còn lưu truyền nhiều giai thoại về trí nhớ tuyệt hảo của Hoàng giáp Vĩnh Ân, không kém trí nhớ nhà bác học Lê Quý Đôn. Truyền rằng, thuở thiếu thời, Nguyễn Văn Hiển rất say mê đọc sách, ngày tết, ra phố, đến tiệm sách, mở lịch ra xem, ông đọc một mạch là thuộc làu làu nên không bao giờ ông tốn tiền mua sách, mua lịch. Có lần, biên bản quyết toán tiền xây dựng đình làng bị mất, may nhờ có ông Hiển đã được đọc qua biên bản ấy một lược thuộc lòng, chép lại không hề sai sót mọt chữ, nên việc thanh quyết toán trôi chảy.
Ông mất năm 1865, mới 39 tuổi, lúc còn đương chức. Hiện nay, con cháu ông kế thừa từ đường tại thôn Vĩnh Long, xã Cát Hanh, huyện Phù Cát, còn lưu giữ đầy đủ các bài vị sắc phong Hoàng giáp Vĩnh Ân.
Nguyễn Bá Huân
Nguyễn Bá Huân sinh năm 1853 tại làng Vân Sơn, xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn. Ông là con trưởng của cụ Tú tài Nguyễn Khuê. Cả Nguyễn Bá Huân và hai em trai là Nguyễn Trọng Trì, Nguyễn Quý Luân đều chiến đấu dưới cờ Cần Vương của Mai Xuân Thưởng.
Nguyễn Bá Huân bốn khoa khăn gói đi thi không đỗ, đến năm Bính Tý-s1876, thì không mơ tưởng đến con đường thi cử mà chú tâm dạy học và viết văn theo nghiệp cha. Tính cách Nguyễn Bá Huân rất phóng khoáng, không chịu câu thúc bởi những ràng buộc về quan trường. Khi bạn ông, Nguyễn Đôn Phục bị cách chức Tri huyện Bình Khê, nhiều người tỏ ý tiếc nuối, trái lại, Nguyễn Bá Huân thì bảo rằng: “Tôi mừng cho ông, vì từ nay khỏi bị cân đai bó buộc, ngòi bút thả sức tung hoành”.
Tháng 5.1885, Pháp chiếm kinh thành Huế, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương. Lãnh tụ phong trào Cần Vương Bình Định, Đào Doãn Địch trước khi tạ thế trao binh quyền lại cho Mai Xuân Thưởng. Ba anh em Nguyễn Bá Huân đều gia nhập nghĩa quân của Mai Xuân Thưởng. Nguyễn Bá Huân làm Tham Tán sự vụ.
Năm 1887, phong trào Cần Vương Bình Định bị thất bại. Mai Xuân Thưởng cùng các chiến hữu bị bắt và bị trảm quyết. Nguyễn Bá Huân tìm nơi lánh nạn trong núi, thoát khỏi nanh vuốt bọn thực dân Pháp.
Mãi đến tháng tư năm Ất Mùi, 1895-Thành Thái có Chiếu chỉ bãi bỏ lệnh truy nã, truy tố các chiến sĩ Cần Vương, Nguyễn Bá Huân cùng hai em trở về làng cũ Vân Sơn, đoàn tụ gia đình được một thời gian ngắn, thì cha là cụ Tú Nguyễn Khuê nổi tiếng hay chữ và em là Nguyễn Thúc Mân qua đời. Nguyễn Bá Huân như mê, như tỉnh, mượn chén rượu, vần thơ giải sầu.
Những tác phẩm thơ văn của Nguyễn Bá Huân gồm có: Tây Sơn tiềm long lục (viết về nhà Tây Sơn trước khi dấy nghĩa), Tây Sơn cân quắc anh hùng truyện (viết về Bùi Thị Xuân), Tây Sơn văn thần liệt truyện (viết về danh nhân nhà Tây Sơn), Bình Định Hào kiệt truyện (viết về các chiến sĩ Cần Vương), Trinh phụ khốc phu từ (thơ song thất lục bát).
Năm 1915, Nguyễn Bá Huân tạ thế, hưởng thọ 63 tuổi.
Nguyễn Khuê
Gia đình Nguyễn Khuê nổi tiếng năm cha con đều hay chữ. Nguyễn Khuê quê làng Vân Sơn, nay thuộc xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn. Ông sinh năm 1825, 3 lần đỗ tú tài, lần đầu ở khoa thi Bính Ngọ-1840, lần thứ ba tại khoa Giáp Tý-1864. Danh phận ông không cao, nhưng nổi tiếng hiền đức, giỏi cả chữ Hán lẫn chữ Nôm. Ông mở trường dạy học, học trò theo học rất đông, có cả những môn sinh Phú Yên, Quảng Ngãi khăn gói đến nhà ông trọ học.
Tài thơ của Nguyễn Khuê thể hiện ở chỗ ứng đối nhanh, niêm luật chặt chẽ. Cái quý nhất của thơ ông là trong sự chặt chẽ của niêm luật, lời thơ vẫn tươi rói nhịp sống thuần phát của hồn thơ Việt, không hề bị câu thúc bởi ngôn từ mỹ miều, sáo rỗng. Thơ ông toát ra không khí tự tại êm đềm của những làng quê dung dị, với những nông dân cần cù, lam lũ, luôn xem trọng tình nghĩa, không đòi hỏi cao xa. Ông nhìn đời với cái nhìn yêu thương, gắn bó, đôi khi hóm hỉnh.
Cụ Tú Nguyễn Khuê có 4 người con trai, trong đó có 3 người là Nguyễn Bá Huân, Nguyễn Trọng Trì, Nguyễn Quý Luân đều gia nhập nghĩa quân Cần Vương chống Pháp; ở nhà với ông chỉ có người con trai thứ ba là Nguyễn Thúc Mân.
Sau khi phong trào Cần Vương Mai Xuân Thưởng bị dập tắt, các con ông phải lánh nạn, cụ Tú Nguyễn Khuê cùng con là Nguyễn Thúc Mân bị bắt lên phủ. Quan Tri phủ dụ dỗ: “Nếu thầy gọi ba đứa con về đầu thú thì cả nhà sẽ được tha”. Ông hỏi lại: “Quan lớn biết chúng ở đâu thì cho tôi rõ để tôi đi gọi”. Thấy ông già cả, viên Tri phủ châm chọc: “Tôi nghe tiếng thầy hay thơ. Thầy thử vịnh cục cứt sắt, vịnh hay tôi sẽ tha về”. Biết ý quan phủ xem thường mình, Cụ Tú Nguyễn Khuê thủng thẳng đọc: “ôŨilầm, sợ nỗi heo trầy mũi, Cạp lỡ, e khi chó gãy răng”. Quan phủ giận tím mặt, liền sai lính giải cha con ông xuống tỉnh. Nửa tháng sau, vì không đủ chứng lý kết tội, nhà cầm quyền phải trả tự do cho cụ Tú Nguyễn Khuê và Nguyễn Thúc Mân.
Khi thực dân Pháp và tay sai bãi bỏ lệnh truy nã các chiến sĩ Cần Vương, các con của Cụ Tú Nguyễn Khuê lần lượt trở về. Gia đình đoàn tụ không được bao lâu thì Cụ qua đời (1896), thọ 72 tuổi.
Phạm Trường Phát
Tỉnh Bình Định có hai nho sĩ nổi tiếng về tài văn chương, nhưng khi đi thi thường làm chuyện khác người, phạm trường quy, nên nhiều lần thi tú tài không đỗ. Đó là Nguyễn Bá Huân và Phạm Trường Phát được các bậc túc nho đương thời gọi là “Bình Định song cuồng“.
Phạm Trường Phát quê làng Tân Hoá, huyện Phù Cát. Ông rất hay chữ, nhưng thi hoài mà không đỗ tú tài.
Mỗi lần đi thi, Phạm Trường Phát không mang theo lều chõng, mà chít một chiếc khăn dài, cột chặt kín đầu và cổ, coi bộ kỳ quặc như lập dị. Có người tò mò hỏi có phải ông giấu tài liệu ở trong khăn hay không. Ông trả lời: “Không, không có tài liệu nào cả. Tôi chỉ sợ mình hay chữ quá, nổ đầu, văng óc, lây chữ cho quan trường thì quá uổng phí!”.
Phạm Trường Phát vào Trường Thi, ngồi giữa Thập Đạo đường làm thơ và bình luận kinh sách, vừa đọc, vừa lấy bút khuyên chi chít. Ông tự dặn lòng, rằng để quan trường khuyên lên văn bài của mình thì quá uổng phí. Ông tự nhủ, trong thời buổi nhiễu nhương, cốt giữ cái tâm, không dùng chữ nghĩa thánh hiền để bon chen danh lợi.
Giai thoại kể rằng, một hôm, sau khi xem bảng vàng thấy người Bình Định đỗ thủ khoa, sĩ tử Bình Định liền tổ chức chia vui với tân thủ khoa trong một quán nước. Một sĩ tử tỉnh ngoài thấy người Bình Định đỗ thủ khoa liên tiếp, tỏ vẻ khó chịu, không tâm phục, khẩu phục. Nhân thấy trang thờ Cửu Thiên Huyền Nữ có câu đối: “Trạc trạc khuyết linh; dương dương tại thượng”… vị sĩ tử nói trên liền ra vế đối để thử tài vị tân thủ khoa Bình Định. Nội dung vế đối như sau: “Trạc trạc khuyết linh, anh thấy em xinh, dương dương hồ tại thượng”.
Vế đối chữ nghĩa, ý tứ bình thường, nhưng rất khó ở chỗ phải mượn chữ, mượn cảnh ngay trước mắt mới đắc địa. Một người bước tới trước mặt sĩ tử vừa ra vế đối, tự xưng là kẻ bất tài, thi rớt, nhưng vì thấy vế đối quá dễ, không xứng với sức học của vị tân thủ khoa Bình Định, nên xin được đối thay. Ông liền thét chủ quán mang rượu thịt ra. Chủ quán gọi vợ, vợ dạ ran, sẵn sàng. Nhân đấy, vế đối bay ra theo: ”Cấp cấp bất hạ, chồng kêu vợ dạ, đản đản kỳ nhiên tai“. Biết gặp đúng danh tài Phạm Trường Phát, người kia rối rít giảng hoà, kính cẩn nâng hai chén rượu lên khỏi đầu, chén thứ nhất mời họ Phạm, chén thứ hai dành cho vị tân thủ khoa. Từ đó họ kết bạn thân với nhau.
Nguyễn Đôn Phục
Nguyễn Đôn Phục là học trò của cụ Tú Nguyễn Khuê, là bạn văn của Nguyễn Bá Huân, con cụ Khuê. Ông sinh năm 1854 tại làng Phương Danh nay thuộc phường Đập Đá, thị xã An Nhơn. Ông đậu cử nhân năm Tự Đức thứ 26, tức năm Quý Dậu, 1873 (khoa thi nầy chỉ lấy đậu 15 người), được bổ làm Tri huyện Bình Khê, còn Nguyễn Bá Huân thi hỏng. Khi ông được bổ làm Tri huyện thì Nguyễn Bá Huân chép miệng than rằng “Tài như thế mà đi làm Tri huyện uổng quá!”).
Khi đang làm quan, một hôm, nhớ bạn văn, Nguyễn Đôn Phục mời một số bạn cũ đến nhà chơi. Ông sai người nhà bắt chó làm thịt. Nguyễn Bá Huân can ngăn, bảo không nên ăn thịt con chó vì nó trung thành với chủ lắm. Nguyễn Đôn Phục cho bắt một con gà trống choai mới lớn, hăng lắm. Mọi người lại bảo, cũng như con chó, con gà có tội gì mà bị giết? Trước khi giết con gà, róc thịt nhấm nháp, thì phải làm một bản án luận tội nó cho rõ ràng. Nguyễn Bá Huân luận tội trước, nhưng lập luận không chặt chẽ và chưa đưa ra đủ chứng lý để kết tội tử hình. Có người yêu cầu chủ nhà Nguyễn Đôn Phục luận tội. Ông chép miệng đọc: “Mái chẳng chịu, đã lên lưng, coi sức nó đà ngang quá ghẹ; Con có kêu, thời mặc cẳng, sá chi mầy mới ló đuôi tôm”.
Mọi người reo lên: “Đáng tội, đáng tội, quan Tri huyện luận tội hay quá. Tội cưỡng dâm đáng chết”. Có người nói “Nếu tội cưỡng dâm mà đáng chết thì Nguyễn Thân đã phải chết vì tội nầy lâu rồi .Những người yêu nước có tội gì mà bị sát hại? Rõ ràng lẽ phải là của kẻ mạnh, kẻ có quyền thế”.
Cũng do hay chữ, có tài mà ít lâu sau Nguyễn Đôn Phục bị Tổng đốc Bình Định ganh ghét, cách chức. Bạn hữu đến thăm, tiếc cho Nguyễn Đôn Phục, nhưng Nguyễn Bá Huân thì bảo rằng “Tôi mừng cho ông từ nay hết bị cân đai bó buộc, ngòi bút mặc sức tung hoành”.
Danh thắng Bình Định
Thiên nhiên đã ban tặng tỉnh Bình Định nhiều danh lam, thắng cảnh hấp dẫn du khách.
Danh thắng Bán đảo Phương Mai (Triều Châu)
Nằm về phía đông đầm Thị Nại, như một tấm bình phong khổng lồ án ngữ phía biển cho TP Quy Nhơn, bán đảo Phương Mai là đoạn cuối cùng của dải núi Triều Châu. Đây là một vùng núi thấp có nhiều ngọn nhấp nhô. Cao hơn cả là hòn Chớp Vung, hòn Mai, hòn Điệp Chữ.
Trên cao, nhìn từ xa, Phương Mai như đầu một con rồng khổng lồ, thân nằm dài về phía bắc đến tận cửa Đề Gi. Tận cùng phía nam bán đảo là một lưỡi nhọn hình mũi mác, với nhiều hốc đá hiểm trở, gọi là Mũi Mác và Mũi Yến là nơi chim yến thường kéo về làm tổ. Dãy núi phía tây bắc Mũi Mác có một nhánh nhỏ, nhọn sắc như nanh cọp, chĩa về phía tây, tục gọi Gành Hổ, sách cổ gọi là Hổ Ky. Nằm kẹp giữa hai dải núi nầy là một động cát, trên có bàu nước ngọt khá lớn có tên là Sòng Tát Khổng lồ.
Bán đảo Phương Mai được nối với dãy Triều Châu bằng một dải núi dài chừng vài cây số, bề ngang hẹp, chỉ rộng gần 500 mét, có tên là Eo Vượt. (Tên hai địa danh Sòng Tát Khổng lồ và Eo Vượt bắt nguồn từ truyền thuyết ông Khổng lồ đến đây be bờ tát cá trong đầm). Bán đảo Phương Mai, núi giăng hiểm trở, nhưng xen vào các vách đá và ở rìa chân núi có những thung lũng hình thành nên những điểm dân cư là 3 xã Nhơn Lý, Nhơn Hải, Nhơn Hội và một phần phường Hải Cảng.
Tại thôn Hải Giang, xã Nhơn Hải có một ngôi chùa tên là chùa Phật Lồi. Trong chùa hiện có thờ một pho tượng bằng đá sa thạch, cao bằng hình người, sau lưng có bốn hàng chữ Phạn, dân gian quen gọi là chữ bùa.
Hiện trên bán đảo Phương Mai, đang triển khai xây dựng Khu Kinh tế Nhơn Hội, Cảng quốc tế Nhơn Hội và nhiều khu du lịch - nghỉ dưỡng. Dự án Tổ hợp lọc hóa dầu Nhơn Hội (dự án Victory) cũng đang được triển khai.
Danh thắng Chùa Hang (Xem vần C, mục Chùa hang)
Danh thắng Đảo Yến
Dãy Triều Châu ăn ra biển, trải dài chừng 15 km, tạo thành những ngọn núi nhấp nhô, trùng điệp với những tên gọi như hòn Mai, hòn Chớp Vung, núi Cột Cờ, núi Đen. Ngọn núi án ngữ phía nam mang tên Hòn Yến. Cứ mỗi độ xuân về, tiết trời ấm áp, chim yến rủ nhau từng đàn đông nghịt đến đây làm tổ. Vì vậy mà mũi đất tận cùng của bán đảo được gọi là Mũi Yến.
Đảo Yến trước đây thuộc địa phận hai thôn Xương Lý và Hương Mai. Hương Mai nay gồm 4 thôn Hải Giang, Hải Đông, Hải Nam, Hải Minh thuộc xã Nhơn Hải. Phía nam thôn Xương Lý là đầm Nha Phiên, phía bắc là thôn Hưng Lương. Hưng Lương và Xương Lý đều thuộc xã Nhơn Lý.
Đảo Yến là một kho báu yến sào, một đặc sản cao cấp có giá trị xuất khẩu cao, đồng thời là một cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, hấp dẫn bởi những hang động thiên tạo có tuổi hàng vạn năm, với những vòm đá có nơi cao đến trăm mét. Lòng hang động hiểm trở, cheo leo là nơi thích hợp cho loài chim yến đến làm tổ. Trên Đảo Yến có tất cả khoảng 30 hang lớn nhỏ, tập trung chủ yếu ở hai xã Nhơn Lý và Nhơn Hải. Trong mỗi hang nhỏ như hang Rừng Cao, hang Dơi, hang Ba Nghé, hang Cạn, hang Hẹp, hang Hầm Xe, hang Phanh... hàng năm có thể thu được từ 100 đến 300 tổ yến. Còn những hang lớn như hang Đôi Trong, hang Đôi Ngoài, hang Hích, hang Sức Khoẻ, hang Nghìm, hang Luông, hang Khô, hang Cân, hang Cỏ..., đặc biệt là những hang có cửa quay về hướng đông, đông nam, thoáng mát, trần hang có nguồn nước ngọt rịn nhỏ qua khe đá, bên dưới là sóng biển dập dềnh, hàng năm có thể thu được từ 14 đến 15 ngàn tổ yến.
Trên Đảo Yến Quy Nhơn có hai loài yến: yến cỏ và yến sào. Yến cỏ thân hình lớn hơn yến sào, làm tổ bằng cỏ, rác lấy từ các mỏm núi. Yến sào mới là loài chim quý. Yến sào có thân hình như chim sẽ, nhưng bay rất khoẻ, có thể bay 10 giờ liên tục không nghỉ. Chúng làm tổ không phải bằng cây cỏ mà bằng chính nước miếng của mình. Mỗi ngày một ít, chim yến tiết ra nước dãi, kéo thành sợi, quây lại làm tổ. Sau một thời gian, tổ yến khô đi giống như những chiếc vành tai gắn chặt vào trần hang, vách đá. Khi làm xong tổ vừa đủ để nằm lọt thân mình, chim yến bắt đầu sinh sản.
Để có thể lấy được tổ yến trên vách đá và trần hang, người ta bắt các giàn giáo bằng tre liên kết lại với nhau. Người khai thác yến sào phải đi lại trên giàn giáo như đi trên những chiếc cầu treo, đu đưa, vắt vẻo, bắt dọc ngang.
Đến với Đảo Yến Quy Nhơn, nếu đi sâu vào trong hang, du khách sẽ có dịp đắm mình trong khung cảnh hoành tráng, kỳ thú, thơ mộng do thiên nhiên tạo nên. Trên các vách đá, những tổ yến đan khít vào nhau thành chuỗi dài, với những chấm trắng li ti tựa như một bầu trời đầy sao của những đêm hè. Xen lẫn những giọt nước tí tách rơi là những tiếng chim con chíp chíp đòi mẹ mớm mồi hoà cùng tiếng sóng, tiếng chim vỗ cánh tạo thành một âm hưởng kỳ lạ, khiến ta có cảm giác như đang lạc bước vào chốn thiên cung.
Đến tham quan Đảo Yến, du khách còn có dịp ghé thăm chùa Phật Lồi có pho tượng Chàm huyền bí, được chiêm ngưỡng núi Tam Toà với những di tích liên quan đến Uy Minh Vương Lý Nhật Quang đời Lý và nghĩa quân Tây Sơn, được thấy tận mắt pháo đài Hổ Ky với những lỗ đặt súng thần công.
Danh thắng Đầm Đạm Thuỷ (Xem vần Đ)
Danh thắng Đầm Thị Nại (Xem vần Đ)
Danh Thắng Đầm Trà Ổ (Xem vần Đ)
Danh thắng Gành Ráng-Tiên Sa
Gành Ráng là một bộ phận của núi Xuân Vân nằm trong dãy núi Vũng Chua từ phía tây ăn ra tận biển. Gành Ráng nằm về phía nam, cách trung tâm thành phố chừng 4 km, nay thuộc phường Gành Ráng, Quy Nhơn.
Danh thắng Gành Ráng có diện tích khoảng 2 km2, là một phong cảnh thiên nhiên ngoạn mục, hoà quyện giữa núi đồi hùng vĩ, với biển cả mênh mông, chập chùng sóng vỗ, vuốt ve ghềnh bãi, thấp thoáng những cánh buồm ẩn hiện xa khơi, những cánh chim bay dưới bầu trời xanh thẳm, thơ mộng tựa cảnh thần tiên.
Gành Ráng là một quần thể sa thạch chạy sát tới biển, với những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc kỳ vĩ, độc đáo, tuyệt đẹp. Các khối đá có từ lúc nào, chúng xếp với nhau, đứng tựa bên bờ biển tạo nên tượng Vọng Phu, tượng Hòn Chồng, tượng Sư Tử như chực vờn ra biển, tượng Voi đá, Gấu đá ngày đêm nằm hầu chầu, canh giữ biển trời Quy Nhơn. Hàng nghìn, vạn hòn đá tròn trĩnh, lớn nhỏ nằm giữa hai ghềnh đá bên bờ biển, tạo nên một Bãi Trứng như thuở Âu Cơ sau một đêm tái sinh kỳ diệu, có tên là Bãi tắm Hoàng Hậu.
Gần trên đỉnh Gành Ráng có mộ nhà thơ nổi tiếng Hàn Mặc Tử được chuyển từ nghĩa địa Quy Nhơn về đây từ năm 1959, càng làm tăng thêm cảm xúc của khách tham quan.
Thắng cảnh Gành Ráng gắn với truyền thuyết Suối Tiên. Chuyện kể rằng, ngày xưa có một gia đình nông dân nghèo sinh được một cô gái nết na, xinh đẹp như một nàng tiên hạ giới nên được gọi là Tiên Sa. Cô có mối tình trong trắng và mê say với một chàng trai trong làng. Nhưng trớ trêu thay, tiếng đồn về nhan sắc “ chim sa, cá lặn ” của cô nàng đã lọt tới tai một viên quan hám sắc và độc ác. Hắn rắp tâm ép nàng làm vợ. Dựa vào quyền thế, hắn dùng thủ đoạn gian xảo là bắt người yêu của nàng Tiên Sa phải đi lính, rồi đưa chàng đến nơi biên ải xa xôi, đồng thời buộc nàng phải nộp đủ mười cân yến chỉ trong vòng một tháng, nếu không đúng hạn sẽ phải lấy hắn. Giữ trọn mối tình chung thuỷ với người yêu, nàng Tiên Sa không quản hiểm nguy, quyết chí vượt biển ra đảo tìm tổ yến.
Quyết không khuất phục trước âm mưu đen tối của tên quan hám sắc, người con trai trốn về tìm lại được người yêu và thay nàng ra đảo tìm tổ yến. Nàng Tiên Sa trở về sống trong mong đợi và lo âu. Đến thời hạn nộp yến mà bóng chàng vẫn biền biệt. Sợ quá, nàng đành bỏ trốn. Hay tin, tên quan cho lính đuổi theo. Bị truy đuổi gắt gao, nàng Tiên Sa chạy đến Gành Ráng, ẩn vào núi Vũng Chua. Quân lính đuổi tới đây, bỗng trời nổi cơn giông tố, mưa gió ào ào, sấm chớp đùng đùng. Bỗng nhiên, núi nứt ra một khe lớn, nàng vụt chạy vào đó và biến mất. Khi giông tan, trời quang, mây tạnh, khe núi biến thành một dòng suối mát, uốn lượn trên sườn núi như một dải lụa trắng nối liền trời với đất, người đời gọi đó là Suối Tiên.
Sau khi tìm đủ mười cân yến, chàng trai hối hả trở về, những mong được chuộc lại người yêu. Nào ngờ, trên đường từ biển vào đất liền, chàng cũng bị gặp giông bão, yến bị sóng biển cuốn trôi hết. Chàng đuối sức, ngất xỉu, sóng đưa chàng tấp vào Gành Ráng. Khi tỉnh lại, chàng còn đang ngơ ngác chưa biết mình bị dạt vào nơi đâu, thì thấy bóng người yêu khi ẩn, khi hiện. Chàng vừa gọi vừa chạy theo cho đến khi cả hai người cùng biến mất.
Gành Ráng trở thành nơi đoàn tụ của đôi uyên ương khi họ phải thoát tục và trở thành tiên. Câu chuyện đượm màu huyền thoại và đậm chất nhân văn ấy đã gán cho Gành Ráng thêm hai chữ Tiên Sa: Gành Ráng-Tiên Sa.
Danh thắng Hầm Hô
Hầm Hô nằm trên địa phận thôn Phú Mỹ, trước đây thuộc xã Bình Phú, nay là xã Tây Phú, huyện Tây Sơn. Có người cho rằng vì ở đây có một thác nước cao 6-7 mét, đổ vào một hầm đá rộng phát ra tiếng kêu ầm ồ như tiếng hô, báo cho người chèo bè mảng biết sắp tới chỗ nguy hiểm mà phòng bị, nên gọi là Hầm Hô. Lại có người giải thích rằng ở miệng hầm, đá mọc lởm chởm, chìa ra giống như hàm răng hô nên có tên ấy.
Hầm Hô là nơi gặp gỡ của hai nhánh sông Đồng Hươu và sông Cát đổ vào sông Phú Phong. Thắng cảnh là cả một khúc sông dài gần 3 km. Hai bên bờ Hầm Hô là những khối đá trập trùng, chỗ thì dựng đứng như thành vách, nơi thì chồng chất lên nhau thành từng đống, lại có đoạn đá nhọn lởm chởm như những thanh gươm dựng đứng. Làm dịu đi vẻ hiểm trở của những vách đá nhấp nhô là những lùm cây xanh mướt, những bụi sim, mua, hoa tím, lá xanh, xen lẫn những khóm phong lan cheo leo trên đá, lửng lơ trên những cành cây. Điểm xuyết vào đó là những cây cổ thụ im lìm như đang trầm mặc, suy tư. Xa xa là những rừng hoa ngâu đốm vàng với lác đác những khóm mai trắng ẩn hiện. Cây cối mọc lâu ngày, rễ rũ như tóc xoả soi bóng xuống mặt nước lung linh luôn có từng đàn cá tung tăng bơi lội.
Hầm Hô nổi tiếng nhiều cá, nhất là về mùa lũ. Cá từ khắp nơi kéo về từng bầy trông đặc cả nước. Cá lội ngược dòng bị thác nước hất tung trở lại, trông như thể cá bay. Dân gian truyền rằng, hằng năm Long vương tổ chức kỳ thi “cá hoá rồng” tại thác Hầm Hô, nên cá từ sông Côn dồn cả về đây để thử vận may. Có lẽ do truyền thuyết nầy mà thác Hầm Hô còn có tên chữ là Vũ Môn, dân gian thì gọi là thác Cá Bay.
Cảnh đẹp hấp dẫn nhất của Hầm Hô là ở dưới lòng sông. Với chiều rộng trên dưới 30 mét, lòng sông chi chít những trụ đá hoa cương thiên hình vạn trạng. Vào mùa nước cạn, những ngày trời quang, khi những tia nắng ban mai rọi xuống, những khối đá hoa cương ánh lên muôn màu, lóng lánh, rực rỡ. Hòn lớn, hòn nhỏ, khối vuông, khối tròn. Có những cụm nhìn tựa đàn voi đang tắm; có những dãy trông như thể đàn ngựa đang phi. Lại có tảng giống như con cá sấu khổng lồ đang há miệng săn mồi. Và còn biết bao hình dạng giống như người, như thú, như vật dụng thường ngày...Tất cả đều bày la liệt, ngổn ngang mà hài hoà, trông rất ngoạn mục.
Nếu đi thuyền, vượt qua bờ đập, đi ngược dòng sông một đoạn, ta sẽ gặp một vách đá dựng đứng như tường thành, dân gian gọi là hòn Đá Thành. Trên vách đá, rêu phủ xanh rì, từng chùm rễ cây leo lòng thòng rũ xuống trông hệt như một bức tường thành cổ kính. Bên trái hòn Đá Thành có một bãi đá chồng chất lên nhau, dân gian gọi đây là khúc sông Trời Lấp. Qua khúc sông nầy, ngược tiếp dòng sông, sẽ trông thấy ở hai bên bờ có nhiều khối đá lô nhô, hòn cao, hòn thấp, muôn màu, muôn vẻ. Bên những hòn đá quây tụ vào nhau là một vũng nước sâu có tên vũng Cá Rói. Vào mùa khô, nước trong vũng vẫn đầy, từng đàn cá từ khắp nơi dồn về đây, chúng thi nhau tranh mồi, trông không chán mắt. Ngược dòng một đoạn nữa, sẽ thấy một khối đá giống như một con cá sấu khổng lồ nằm ngang giữa lòng sông, chắn dòng nước chảy xiết làm bọt tung trắng xoá, nên có tục danh là Hòn Trào. Từ đây không thể đi thuyền được nữa.
Ngược về phía thượng nguồn, độ dốc càng lớn, nước chảy càng mạnh, dòng sông bị chia khúc thành từng thác nhỏ. Nước chảy ầm ầm dội vào vách núi hoà cùng tiếng muôn chim kêu ríu rít, tiếng tắc kè vọng lại từ những hốc đá và thoang thoảng hương hoa rừng dịu thơm, làm cho cảnh vật càng thêm huyền ảo. Tại nơi đây, có những khối đá giống tựa một cành san hô khổng lồ mà mỗi nhánh lại có dáng vẻ riêng. Có ba khối đá nhẵn thín chụm đầu vào nhau như ba ông táo, được đặt tên là hòn Ông Táo. Truyền khẩu dân gian kể lại rằng đây là nơi thần tiên thường xuống du ngoạn, vui chơi vào những lúc đêm khuya tĩnh mịch, nên trên một hòn đá to vẫn còn in dấu chân ông Khổng Lồ ngồi câu cá. Có một phiến đá với những đường ngang dọc, rêu phủ lờ mờ, tương truyền đó là nơi các vị tiên chơi cờ nên gọi là Bàn Cờ Tiên. Cạnh bàn cờ có hòn đá nước chảy xuyên qua, rồi ùn lên trông như đang sôi, dân gian gọi là hòn Vò Rượu: “Hầm Hô có đá Khổng Lồ, Có hang Bảy Cử, có Vò Rượu sôi’.
Danh thắng Hầm Hô là nơi ghi dấu ấn nhiều sự kiện lịch sử hào hùng của nhân dân Bình Định. Chính tại nơi đây, hơn hai trăm năm về trước, danh tướng Võ Văn Dũng đã rèn quân, luyện võ để cùng các thủ lĩnh Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa. Cũng tại nơi đây, anh hùng Mai Xuân Thưởng đã xây dựng căn cứ kháng Pháp.
Danh thắng Hồ Núi Một
Hồ Núi Một (xã Nhơn Tân, thị xã An Nhơn) là một công trình thuỷ lợi, đồng thời là một thắng cảnh. Hồ rộng mênh mông, bao quanh hồ là cảnh núi rừng xanh tươi bát ngát, muôn chim hót líu lo. Gần bến đi thuyền du ngoạn lòng hồ có di tích cách mạng An Trường, cách đó không xa có hang ông Dài, nơi cất giấu lương thực, nuôi dưỡng, chở che các chiến sĩ hoạt động cách mạng thời kháng chiến chống Mỹ. Trên sườn núi, Thác Đổ ở độ cao 30-40m, với dòng nước bạc tung bọt trắng xoá đổ xuống, theo những con suối nhỏ hoà vào lòng hồ bên dưới. Xung quanh Thác Đổ có những bãi đất, phiến đá bằng phẳng dưới tán những cây cổ thụ rợp mát. Cảnh quan ngoạn mục, không khí trong lành ở đây thật tuyệt vời! (Xem vần H, mục Hồ thuỷ lợi)
Danh thắng Núi Bà-Đá Vọng Phu
Sách Đại Nam nhất thống chí chép rằng: “Núi Bà nằm phía đông nam huyện Phù Cát, có tên là Phó Chính, thế núi cao hùng vĩ, đỉnh núi có phiến đá lớn, bằng phẳng như cái mâm, chân núi có khối đá sừng sững như hình người, dân địa phương lập đền thờ, đảo vũ thường nghiệm”.
Danh sơn Núi Bà (Bà Sơn) nằm ở phía nam đầm Đạm Thuỷ, trên địa phận huyện Phù Cát, chiếm diện tích trên bốn chục cây số vuông. Quần thể Núi Bà có trên 60 ngọn cao thấp khác nhau, trong đó, nổi bật là hòn Hang Rái ở phía đông bắc, hòn Hèo ở phía đông nam, và đỉnh cao nhất, gần 900 mét là hòn Chuông (Chung Sơn) ở phía tây. Nhìn từ xa, hòn Chuông tròn trặn, trông như một quả chuông úp. Vì vậy, mà người xưa đã đặt tên chữ cho Núi Bà là Phó Chính đại sơn (núi lớn bày chiêng).
Quần thể Núi Bà trùng trùng, điệp điệp, trông xa như liền mạch, kết khối, nhưng trên thực tế thì xen giữa các khối núi nhấp nhô là những thung lũng, cây cối xanh tươi, bốn mùa được tưới mát bởi hàng chục khe, suối từ trong nguồn chảy ra, nên có dân làm ăn sinh sống. Do vị thế hiểm trở, nên việc đi lại phải qua những đèo đá tai mèo lởm chởm, như đèo Nhỏ ở phía bắc, đèo Lớn (đèo Tố Mộ) ở phía nam, đèo Mũi Đá Dăm ở phía đông. Núi cao án ngữ khiến cho những động cát phía đông dồn lại, lâu ngày nổi lên thành truông, vun lên thành gò, nên trong dân gian có câu: “Anh về em cũng muốn theo, Sợ truông cát nóng, sợ đèo đá dăm. Đá dăm anh đã lượm rồi, Còn truông cát nóng, em bồi bùn non”.
Trong dãy Núi Bà, ở địa phận thôn Chánh Oai có hai khối đá, một cao, một thấp trông tựa hình người. Từ phía biển nhìn vào, trông giống như một người đàn bà tay dắt đứa con đang ngóng nhìn ra phía khơi xa. Dân gian gọi đó là hòn Vọng Phu. Khối đá xanh đứng hoài dưới nắng mưa, thi gan cùng tuế nguyệt đã trở thành biểu tượng cho lòng chung thuỷ của nghĩa vợ chồng. Nó cũng giống như hòn Tô Thị gần động Tam Thanh ở Lạng Sơn., duy sự tích vợ ngóng trông chồng thì mỗi nơi một khác. Nàng Tô Thị phải lìa chồng ra đi biệt vô âm tín, do loạn lạc, chiến tranh. Còn nàng Vọng Phu lại là hoá thân của một phụ nữ gặp cảnh đời éo le. Sự tích kể lại rằng, có một gia đình chỉ sinh ra được hai người con, một trai, một gái. Lúc còn nhỏ, người anh lỡ tay làm vỡ đầu em, máu ra lênh láng. Sợ quá, người anh bỏ nhà trốn đi biệt xứ. Thế rồi, năm tháng trôi qua, sự đời trớ trêu lại xe kết họ nên duyên vợ chồng và sinh hạ được một đứa con. Nào ngờ, đến một ngày nọ, người chồng tình cờ phát hiện ra rằng người vợ chính là em ruột mình. Đau đớn và ân hận khôn cùng, người chồng lặng lẽ bỏ đi mà không một lời giã biệt. Không mảy may biết duyên cớ chồng bỏ đi, người vợ thương nhớ khôn nguôi, nên dắt con lên đỉnh núi mòn mõi ngóng trông chồng cho đến khi hoá thành đá.
Núi Bà còn là một nơi có nhiều di tích lịch sử. Nơi đây còn giữ lại những phế tích cổ kính từ thuở Bình Định còn là Chiêm Đô, những dấu ấn đậm nét của phong trào Tây Sơn quật khởi, đặc biệt là chứng tích một căn cứ cách mạng quan trọng của nhân dân Bình Định trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược.
Danh thắng Suối khoáng Hội Vân
Trong Phủ Biên tạp lục, Lê Quý Đôn viết: “Phường Đông An, huyện Phù Ly, phủ Quy Nhơn có một cái đầm tròn. Đầm nầy ngày thường sôi, nước trong suốt tới đáy, nóng không thể gần được. Lúc lạnh thì bốc khói, lúc mưa khói càng bốc lên nghi ngút. Trâu, dê ngã xuống cũng như bị luộc. Trong đầm cũng có cá sống được. Tôm, cua đều có sắc đỏ...”. Sách Đại Nam nhất thống chí, phần viết về tỉnh Bình Định có đoạn: “Khe nước nóng ở trong rừng về phía nam huyện Phù Cát, bề dọc 2 trượng (khoảng 8-10 mét), bề ngang chừng một trượng, lởm chởm nhiều đá, nước thường bốc hơi như nước sôi, chảy ra hơn 10 trượng, khí nóng mới bớt dần...”.
Suối khoáng Hội Vân phát nguyên từ vùng núi thấp phía bắc, đến thôn Hội Vân (xã Cát Hiệp, huyện Phù Cát), nước chảy vào một hồ nhỏ rộng chừng 400 m2, sâu hơn 1m. Đáy hồ có những tản đá lởm chởm xen kẽ nhau. Từ đó, mạch nước bỗng phun lên ùng ục, khói toả nghi ngút giống như một chảo nước đang sôi. Hồ nằm giữa một thung lũng cát mênh mông, xung quanh có núi non bao bọc. Vào những ngày đẹp trời, nhất là vào lúc sớm mai, hơi nước bốc lên tụ lại thành những làn khói mây mờ mờ làm cho cảnh vật trở nên huyền ảo. Khi trời nắng nóng, sương mù tan biến, mặt nước hồ trở lại trong vắt, có thể nhìn thấy những vòi nước phun lên từ đáy, giống như những con rồng đang giỡn đùa giữa dòng nước. Quanh miệng hồ là những bãi cát dài trắng mịn dùng làm bãi tắm nắng lý tưởng.
Trong dân gian lưu truyền rằng, khi tỉnh Bình Định còn là Chiêm đô, trong hoàng tộc có một công nương sắc đẹp mê hồn, nhưng bỗng mắc phải một bệnh kỳ quái, da nổi mụn xù xì, ngứa ngáy, không một danh y nào chữa khỏi nên quanh năm, suốt tháng, nàng phải giấu mình trong cung cấm. Trong một cuộc đi săn trong rừng, Quốc vương Chămpa đã cho công nương đi theo cùng để nàng được khuây khoả, thư giãn. Khi đến một vùng thấy có suối nước nóng, công nương xuống suối tắm. Và kỳ lạ thay, nàng thấy hết ngứa ngáy, trong người cảm thấy khoan khoái, dễ chịu. Nàng xin vua cha cho hạ trại nán lại một thời gian để nàng được ngày ngày ngâm mình trong dòng nước nóng. Và thế là bệnh tình của nàng khỏi hẳn. Vì vậy mà suối nước nóng Hội Vân còn có tên là Suối Tiên.
Đó là truyền thuyết còn về khoa học thì các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Pháp, Mỹ và Việt Nam đều khẳng định khả năng trị liệu của nước suối Hội Vân. Đó là loại nước khoáng có nhiệt độ dao động từ 70-80 độ C, vô trùng, chứa khoảng 20 chất khoáng có ích, với những nồng độ thích hợp, có tác dụng chữa bệnh tốt.
Tại suối khoáng Hội Vân, một Nhà Điều dưỡng đã được xây dựng từ năm 1978, thường xuyên thu nhận bệnh nhân đến điều trị bằng đắp bùn và tắm nước nóng. Trong tương lai, Nhà Điều dưỡng sẽ được nâng cấp thành một Trung tâm Điều dưỡng hiện đại với quy mô 300 giường bệnh nội trú.
Di tích Lịch sử-Văn hoá
Hiện tại, trên địa bàn tỉnh Bình Định có 231 Di tích Lịch sử-Văn hoá, trong đó có 88 di tích đã được xếp hạng: 33 di tích quốc gia, 55 di tích cấp tỉnh. Chỉ có các di tích phong trào Tây Sơn, nhất là Bảo tàng Quang Trung và một số di tích tháp Chàm là được đầu tư tôn tạo, nâng cấp và khai thác phục vụ các hoạt động du lịch. Còn phần lớn các di tích khác đều bị xuống cấp và hầu như chưa phát huy tác dụng.
Di tích cách mạng - kháng chiến
Bình Định là tỉnh có tổ chức Đảng hình thành rất sớm, vào đầu năm 1930 sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời; là địa phương có phong trào cách mạng chống thực dân-phong kiến, giành độc lập, tự do, dân chủ, dân sinh rất mạnh. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, quân dân Bình Định đã lập nhiều chiến công hiển hách, viết nên những trang sử vàng chói lọi để lại cho muôn đời sau. Đó là những Di tích Cách mạng-Kháng chiến sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Di tích Bãi biển Quy Nhơn
Bãi biển Quy Nhơn là một thắng cảnh, đồng thời là một Di tích lịch sử của tỉnh Bình Định. Tại nơi đây đã ra đời đại đội Phan Đình Phùng, đơn vị lực lượng vũ trang cách mạng đầu tiên của nhân dân Bình Định. Cũng tại nơi đây thời kháng chiến chống Pháp, ta đã đánh thắng quân Pháp đổ bộ lên Quy Nhơn.
Bãi biển Quy Nhơn còn là nơi diễn ra các cuộc chia ly lịch sử, các đợt chuyển quân tập kết ra Miền Bắc của cán bộ và lực lượng vũ trang Bình Định và các tỉnh khu V cũ, nay đã dựng lên một tượng đài kỷ niệm sự kiện có ý nghĩa nầy.
Đặc biệt, bãi biển Quy Nhơn là nơi diễn ra trận đánh cuối cùng của quân dân Bình Định tiêu diệt toàn bộ một sư đoàn tàn quân nguỵ đang trên đường rút chạy ra biển trong chiến dịch Xuân 1975.
Sau khi giải phóng thị xã Quy Nhơn (31.3.1975), Trung đoàn 93 của tỉnh và một số đơn vị bộ đội địa phương được lệnh triển khai lực lượng, chặn đường rút chạy của địch và tiêu diệt các tàu chiến địch đến đón tàn quân. Tối ngày 31.3, quân ta phá sập cầu sông Ngang. 0 giờ ngày 1.4, gần 4.000 tên địch thuộc Sư 22 nguỵ, Thiết đoàn 14 cùng các đơn vị pháo binh, lính bảo an với 200 xe quân sự, trong đó có nhiều xe tăng, xe bọc thép lọt vào trận địa phục kích của ta. Quân ta bất thần nổ súng tấn công địch dữ dội. Trong khi đó, 2 tàu chiến địch tiến sát bờ biển Quy Nhơn, thả xuồng máy vào bờ đón bọn tàn quân. Số thuyền máy nầy liền bị pháo cối của Tiểu đoàn 73 và hoả lực của các đơn vị bộ binh ta bắn tan tác. Hơn 10 chiếc thuyền bị trúng đạn, khiến bọn ứng cứu không dám cập bờ.
Biết không còn đường tháo chạy, tàn quân địch trên bờ liều chết chống lại quân ta. Nhưng khi chiếc xe bọc thép chở tên chỉ huy Thiết đoàn 14 bị bắn cháy thì quân địch vô cùng hoảng loạn. Nhiều tên địch tìm cách trốn chạy khỏi trận địa. Ta mở trận quyết chiến, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ tàn quân địch của Sư 22, Thiết đoàn 14 và một số đơn vị nguỵ quân khác; thu hơn 1.000 súng các loại; bắn chìm 13 tàu thuyền đến ứng cứu; bắn cháy hàng chục xe, pháo địch. Đến tối ngày 1.4 thì trận đánh kết thúc.
Di tích Căn cứ Đồi Chè
Đồi Chè cao 829 mét là vùng rừng núi nằm giữa hai thôn Thạch Bàn và Hội Sơn thuộc xã Cát Sơn, huyện Phù Cát. Nơi đây có địa hình hiểm trở, dốc đứng, khúc khuỷu, rừng rậm, nhiều hang đá.
Trong kháng chiến chống Mỹ, giai đoạn 1970-1971, Tỉnh uỷ Bình Định chọn Đồi Chè làm căn cứ đứng chân để chỉ đạo phong trào cách mạng trong tỉnh, đồng thời làm bàn đạp tấn công địch ở đồng bằng.
Căn cứ Đồi Chè được chia thành 2 khu chính: Khu A đóng cơ quan Tỉnh uỷ và đại đội An ninh vũ trang; Khu B có Trường Đảng tỉnh, cơ quan Tuyên Huấn Tỉnh uỷ, Mặt trận, các đoàn thể và cơ quan Binh vận tỉnh.
Từ Đồi Chè đến Khu A và Khu B phải qua chốt chặn duy nhất có tên gọi lịch sử là “Hòn đá Kiên cường“. Tại đây, cuối tháng 3.1971, Đại đội An ninh vũ trang của tỉnh đã đập tan trận càn của địch, tiêu diệt 100 tên Nam Triều Tiên, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng; bảo vệ an toàn các cơ quan của Tỉnh uỷ.
Sau trận thắng oanh liệt nầy, đồng chí Đặng Thành Chơn, Bí thư Tỉnh uỷ đã đến thăm, khen ngợi, động viên Đại đội An ninh vũ trang, tặng Đại đội cái tên có ý nghĩa sâu xa là “Đơn vị kiên cường”. Đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ tự tay viết và tô đậm nét hai chữ “Kiên cường“ lên tảng đá lớn đồi Yên Ngựa, phía tây bắc Đồi Chè.
Di tích Căn cứ Núi Bà
Núi Bà nằm trên địa phận huyện Phù Cát là một danh thắng, đồng thời là nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của nhân dân Bình Định. Trong kháng chiến chống Pháp, nhân dân ta đã dựng trên Núi Bà nhiều chiếc bồ báo hiệu có tàu chiến địch đang rập rình đổ bộ hay máy bay địch định bay vào thả bom. Đặc biệt, trong kháng chiến chống Mỹ, Núi Bà là nơi ôm ấp, chở che, bảo vệ các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh, của huyện Phù Cát và của thị xã Quy Nhơn; là nơi đứng chân của nhiều đơn vị quân giải phóng; là nơi khởi nguyên nhiều chiến công lừng lẫy; đồng thời cũng là nơi gánh chịu nhiều tổn thất nặng nề, nhiều đau thương, tang tóc.
Sau thời kỳ đen tối, bị địch khủng bố, đàn áp dã man, gây cho các lực lượng cách mạng nhiều tổn thất, hy sinh, từ cuối năm 1959, các cơ sở cách mạng của các xã quanh Núi Bà dần dần khôi phục, củng cố và từng bước phát triển. Trước yêu cầu phát triển của phong trào chống Mỹ, cứu nước, Tỉnh uỷ Bình Định chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo Khu Đông để kịp thời nắm bắt thực tiễn tình hình và trực tiếp lãnh đạo quần chúng nhân dân. Cuối năm 1962, Ban Cán sự Khu Đông được thành lập, có phạm vi hoạt động gồm các xã phía nam huyện Phù Cát, phía đông bắc huyện Tuy Phước và phía đông huyện An Nhơn, đóng cơ quan tại Núi Bà. Thị uỷ Quy Nhơn cũng mượn Núi Bà làm căn cứ đứng chân lãnh đạo, chỉ đạo phong trào nội thị.
Nơi tỉnh chọn làm căn cứ là Hóc Mang trên đỉnh Núi Bà (nay thuộc địa phận thôn Hội Lộc, xã Cát Hưng, huyện Phù Cát). Đây là một căn cứ lợi hại, với nhiều hốc đá hiểm trở, có đường độc đạo nối thông với các vùng khác. Tại đây, có suối nước tự nhiên thuận tiện cho sinh hoạt. Đặc biệt, Hóc Mang là vị trí trọng yếu, trấn giữ phía nam con đèo cắt dọc Núi Bà. Từ đây, có thể dễ dàng triển khai lực lượng xuống các xã đồng bằng huyện Phù Cát, khi cần thiết cũng có thể theo đường đèo Tố Mộ, rút sâu vào trong núi, đến những căn cứ an toàn hơn ở thung lũng Sơn Rái, hoặc di chuyển lên phía bắc, tới những vùng cư dân ẩn sâu trong núi như các thôn Chánh Hùng, Chánh Thắng (xã Cát Thắng, huyện Phù Cát).
Từ căn cứ đứng chân Hóc Mang, Ban Cán sự đã xây dựng và phát triển nhiều cơ sở cách mạng ở các xã đông nam Núi Bà, đông Tuy Phước và An Nhơn. Từ 1961-1962, ta xây dựng thêm một căn cứ quan trọng ở Tân Thanh, một hẻm núi giáp biển phía đông Núi Bà, làm cơ sở cho những hoạt động vũ trang
Xuất phát từ yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới, tháng 4/1964, Ban Chỉ đạo tiền phương của tỉnh được thành lập thay vì Ban Cán sự Khu Đông; một đại đội chủ lực của tỉnh được thành lập đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Chỉ đạo tiền phương. Lúc đầu Ban Chỉ đạo đóng ở Tân Thanh. Nhưng vì quân địch vây ráp gắt gao nên cơ quan đầu não của tỉnh ở khu Đông phải chuyển lên một căn cứ trên Núi Bà. Đó là một hang đá tự nhiên rộng 5m, sâu 8m, trên độ cao 200m, nay thuộc thôn Lộc Khánh, xã Cát Hưng. Từ hang đá có thể quan sát cả một vùng rộng lớn. Từ nơi đây, cơ quan đầu não Khu Đông đã trực tiếp chỉ đạo cuộc đồng khởi năm 1964 giải phóng hoàn toàn 23 xã nối liền một dải từ bắc Phù Cát đến đông Tuy Phước và An Nhơn. Đầu năm 1965, bao quanh Núi Bà là cả một vùng giải phóng rộng lớn gồm các xã đông nam Phù Cát, đông An Nhơn, đông bắc Tuy Phước; đặc biệt, lần đầu tiên ta làm chủ một số thôn ven thị xã Quy Nhơn như Hưng Thạnh, Đông Định, Tây Định, Vân Hà, với hơn 200.000 dân.
Vùng giải phóng ngày càng được mở rộng. Căn cứ Núi Bà càng được củng cố, không chỉ là nơi đóng cơ quan đầu não chính trị của tỉnh mà còn là nơi đứng chân của các đơn vị chủ lực. Thung lũng Sơn Rái trở thành hậu cứ của D50, D10 đặc công. Cơ quan lãnh đạo của thị xã Quy Nhơn cũng đóng tại đây.
Chiến lược chiến tranh đặc biệt bị thất bại hoàn toàn, đầu năm 1965, đế quốc Mỹ ồ ạt đổ quân vào Miền Nam, tiến hành chiến tranh cục bộ. Tháng 4.1965, được sự yểm trợ của pháo binh và không quân Mỹ, một tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ nguỵ từ biển đánh vào đông nam Núi Bà. Địch đã bị quân ta đánh trả quyết liệt: 50 tên bị tiêu diệt tại chỗ, 7 máy bay trực thăng bị bắn rơi. Quân địch phải tháo chạy. Di tích ghi lại chiến công nầy là doi cát ven biển thuộc địa phận thôn Trung Lương-Phú Hậu, xã Cát Tiến.
Bước vào chiến dịch mùa khô 1965-1966, thực thi chiến lược hai gọng kìm “bình định và tìm diệt”, địch mở rộng quy mô và địa bàn càn quét, đánh phá, gây cho ta nhiều tổn thất nặng nề. Vùng giải phóng bị thu hẹp. Trước tình thế đó, các cơ quan lãnh đạo chính trị của tỉnh, huyện, thị và các đơn vị vũ trang đều rút về đóng tại căn cứ Núi Bà. Bộ đội chủ lực của tỉnh, các cơ quan lãnh đạo của các huyện Tuy Phước, An Nhơn và thị xã Quy Nhơn, đóng ở khu vực đèo Tố Mộ; cơ quan lãnh đạo huyện Phù Cát đóng ở khu 10, sườn phía tây Núi Bà (nay thuộc địa phận thôn Hoà Hội, xã Cát Hanh)
Giữa tháng 9.1966, địch cho máy bay B52 ném bom rải thảm xuống căn cứ đèo Tố Mộ. Tiếp đó, Sư đoàn Mãnh Hổ và Lữ đoàn Bạch Mả của Đại Hàn phối họp cùng quân nguỵ bao vây, đánh phá Núi Bà vô cùng ác liệt. Thực hiện khẩu hiệu “lật đá để bắt Cộng sản”, chúng càn quét, lùng sục trên 200 địa điểm nghi là có lực lượng ta đóng. Mặc dù quân địch đã gây cho quân dân ta nhiều tổn thất nặng nề, nhưng chúng vẫn không sao thực hiện được mục đích tiêu diệt hoàn toàn lực lượng cách mạng đóng tại căn cứ Núi Bà. Chúng điên cuồng bắn giết nhân dân vùng xung quanh Núi Bà. Đẫm máu nhất là cuộc tàn sát tập thể một lúc 60 người dân vô tội ở Hòn Đụn, Tân Thanh, suối Ông Tuồng (xã Cát Hải); 50 đồng bào ta ở Trường Thạnh, Đồng Đạy (xã Cát Tiến)
Nhằm bảo toàn lực lượng và bảo vệ dân, Tỉnh uỷ quyết định phá vòng vây, chuyển lực lượng về phía tây. Do căn cứ Núi Bà có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, nên tháng 11/1966, Tỉnh uỷ cử một số cán bộ bí mật về Núi Bà gây dựng lại các cơ sở cách mạng và lực lượng vũ trang. Một đài thông tin cũng đã được bí mật đặt tại Sơn Rái, gần khu vực trung tâm Núi Bà. Tháng 12.1967, một đại đội đặc công mới được tăng cường và hai tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 12, Sư đoàn 3 quân khu V kiên cường bám trụ Núi Bà, bí mật rời căn cứ, bất ngờ tấn công quận lỵ Tuy Phước. Sau chiến thắng có ý nghĩa đặc biệt to lớn và quan trọng nầy, các cơ quan đầu não và các đơn vị bộ đội chủ lực của tỉnh lại trở về đóng tại Núi Bà. Nơi đây trở thành hậu cứ chủ yếu cho chiến dịch Tết Mậu Thân - 1968, tấn công và nổi dậy, lầm chủ thị xã Quy Nhơn trong vòng 7 ngày.
Sau thắng lợi Mậu Thân, các cơ quan lãnh đạo của tỉnh, của thị xã Quy Nhơn, huyện An Nhơn, huyện Tuy Phước đều về đóng lại ở khu vực đông nam Núi Bà, chủ yếu là ở sườn đông núi Vĩnh Hội cho đến đầu năm 1975. Những địa danh đồi Cả, đồi Gành, đồi 338, đồi Phú Hậu.. đã chứng kiến những trận chiến đấu vô cùng dũng cảm của các chiến sĩ quân Giải phóng thề hy sinh đến giọt máu cuối cùng, quyết tâm bảo vệ căn cứ Núi Bà.
Mùa xuân 1975, khi thời cơ giải phóng hoàn toàn tỉnh nhà và toàn Miền Nam đã đến, tại Trảng Bàng, một địa điểm thuộc khu vực Sơn Rái, các đơn vị lực lượng vũ trang của tỉnh, thị xã Quy Nhơn và các huyện Phù Cát, Tuy Phước, An Nhơn đã làm lễ tuyên thệ trước khi xuất quân tấn công giải phóng Quy Nhơn, vơi khẩu hiệu, như một lời hứa đanh thép: ”Khí thế như Mậu Thân, Ra quân như Nguyễn Huệ, Tiêu diệt triệt để như Điện Biên“. Ngày 31.3.1975, toàn tỉnh Bình Định và thị xã Quy Nhơn được hoàn toàn giải phóng.
Với trên 80 di tích, quần tụ thành 29 khu, với một quần thể di tích lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Di tích Căn cứ Núi Bà, thánh địa cách mạng của tỉnh Bình Định, mãi mãi là niềm kiêu hãnh và tự hào luôn toả sáng trong tâm khảm các thế hệ nhân dân tỉnh nhà.
Di tích Cầu Mục Thịnh
Cầu Mục Thịnh nằm trên tuyến đường sắt bắc nam, ở phía nam địa phận làng Canh Phước, xã Canh Hoà, huyện Vân Canh, nơi giáp ranh giữa Bình Định và Phú Yên. Cây cầu dài 8m nằm lọt giữa một vùng núi vắng vẻ là Di tích ghi lại nhiều sự kiện lịch sử đáng nhớ của nhân dân Bình Định.
Tại khu vực cây cầu nầy, thời Pháp thuộc, đã diễn ra nhiều cuộc đấu tranh của công nhân đường sắt. Đặc biệt, thời kháng chiến chống Mỹ, năm 1962, quân dân Vân Canh đã lập chiến công tiêu diệt một đoàn tàu quân sự của Mỹ-nguỵ, làm nức lòng đồng bào trong tỉnh.
Thực hiện kế hoạch Stalay-Taylor, với tham vọng bình định Miền Nam trong vòng 18 tháng, có sự yểm trợ tối đa của không quân và pháo binh Mỹ, bộ binh nguỵ, có cố vấn Mỹ làm tham mưu, tiến hành nhiều cuộc hành quân càn quét, gây nhiều tội ác đẫm máu đối với nhân dân Bình Định.
Để góp phần ngăn chặn việc vận chuyển binh lính và vũ khí của địch, huyện đội Vân Canh xây dựng kế hoạch chặn đánh các đoàn tàu quân sự địch. Sau khi nắm được kế hoạch vận chuyển của địch, đêm 26.2.1962, dưới sự chỉ huy của đồng chí Trần Đình Lưu, các chiến sĩ du kích Vân Canh đã đột nhập vào đoạn đường sắt sát cầu, dùng cơ lê túyp tự tạo bằng ống sắt, bí mật tháo hết các bù lon nối các thanh ray với tà vẹt, sau đó dùng dây mây cột chặt vào đường ray, nối dài ra các địa điểm phục kích hai bên đường. Ở mỗi đầu dây có 4 chiến sĩ khoẻ, mạnh luôn trong tư thế sẵn sàng hành động. Ngày 27.2.1962, đoàn tàu quân sự xuất hiện. Khi tàu tiến đến gần cầu, các chiến sĩ du kích bất thần dồn hết sức kéo bật các thanh ray ra khỏi đường tàu. Không kịp trở tay, cả đoàn tàu lao xuống vực sâu, 6 toa bị lật nhào làm chết 50 tên thuộc Sư đoàn 12 nguỵ. Bị phục kích bất ngờ và tổn thất nặng, địch điên cuồng cho máy bay đến dội bom, nhưng các chiến sĩ ta đã nhanh chóng rút lui an toàn.
Di tích Cầu Mục Thịnh là biểu tượng của trí thông minh và lòng dũng cảm của các chiến sĩ du kích Vân Canh thời kháng chiến chống Mỹ.
Di tích Chiến thắng An Lão
An Lão là một huyện miền núi nằm ở phía bắc tỉnh. Thời kháng chiến chống Pháp, An Lão là căn cứ quan trọng của khu V và tỉnh Bình Định. Thời kháng chiến chống Mỹ, sau cuộc khởi nghĩa từng phần giành thắng lợi ở Vĩnh Thạnh, đầu năm 1960, huyện An Lão được giải phóng. Đến năm 1964, địch lấn chiếm lại quận lỵ và cho xây dựng chi khu quân sự khá kiên cố. Tuy ở sâu trong núi, nhưng quận lỵ An Lão lại nằm lọt vào một thung lũng, án ngữ những đầu mối giao thông quan trọng. Trục lộ 56 (tức tỉnh lộ 629) nối liền với quốc lộ IA ở Bồng Sơn về phía nam. Tại phía bắc quận lỵ, trục lộ nói trên chia làm hai nhánh, một nhánh song song với sông An Lão, chạy thẳng lên Ba Tơ (Quảng Ngãi), một nhánh khác cắt ngang sông, chạy dọc thung lũng là con đường huyết mạch của Chi khu.
Lực lượng địch đóng tại Chi khu gần 900 tên, gồm 2 đại đội và 2 trung đội lính bảo an, 12 trung đội dân vệ, một trung đội biệt kích và một trung đội pháo cối. Để phòng thủ vững chắc, địch bố trí thành 3 cứ điểm: Núi Một (còn gọi là cao điểm 193), án ngữ con đường nối quận lỵ với vùng núi phía tây bắc; Núi Mít ở Long Thạnh và suối Bà Nhỏ ở Hội Long. Núi Một là căn cứ chính do 1 đại đội bảo an tăng cường, 1 trung đội biệt kích, 1 trung đội dân vệ và 1 trung đội pháo, cối 106 ly đóng giữ. Địch gom dân trong vùng, xây dựng thành 8 ấp chiến lược, mỗi ấp có 1 trung đội dân vệ canh giữ, làm lá chắn vòng ngoài.
Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy khu V, tấn công tiêu diệt Chi khu quân sự-quận lỵ An Lão, tạo bàn đạp và điều kiện thuận lợi để mở rộng vùng giải phóng Hoài Ân, Hoài Nhơn, chiều ngày 6.12.1964, toàn bộ lực lượng của ta gồm 1 đại đội của bộ đội tỉnh, 8 trung đội bộ đội địa phương của các huyện và lực lượng du kích các xã cùng. Trung đoàn 2, Sư 3 bộ đội chủ lực và Tiểu đoàn 409 đặc công quân khu V bao vây Chi khu và áp sát các cứ điểm. Đúng 1 giờ sáng ngày 7.12, tiếng súng tấn công căn cứ Núi Một rền vang, mở đầu cuộc công kích trên toàn tuyến. Bị đánh bất ngờ, quân địch không kịp trở tay. Trong vòng chưa đầy một giờ, tất cả quân địch tại các cứ điểm đều bị tiêu diệt và bắt sống. Địch hốt hoảng cho 1 tiẻu đoàn thuộc Trung đoàn 40 chủ lực nguỵ kéo lên tiếp viện, nhưng cũng bị đánh tan. Số quân còn lại co cụm, chống trả, nhưng rồi cũng phải tháo chạy.
Giải phóng hoàn toàn Chi khu quân sự-quận lỵ An Lão, ta tiêu diệt và bắt sống 610 tên địch, có 5 cố vấn Mỹ, bắn cháy 5 xe M113 và 1 máy bay lên thẳng, thu 320 súng các loại và nhiều quân trang, quân dụng; phá banh các ấp chiến lược, giải phóng 11.000 dân bị dịch kìm kẹp, biến toàn bộ thung lũng An Lão dài 22 km thành căn cứ kháng chiến của tỉnh Bình Định.
Năm 1994, nhân Kỷ niệm 30 năm Chiến thắng oanh liệt nầy, Tượng đài Chiến thắng An Lão đã được xây dựng tại Núi Một, thuộc xã An Trung.
Di tích Chiến thắng Bồ Bồ
Bồ Bồ là con đèo nằm giữa hai ngọn núi Nước Đỏ và Bạc Má, tạo thành một con đường độc đạo dẫn tới các xã ven sông Côn thuộc địa phận huyện Vĩnh Thạnh. Tại con đèo nầy, tháng 7 năm 1947, quân ta đã lập chiến công vang dội, đánh bại cuộc hành quân càn quét, lấn chiếm của quân Pháp.
Sau khi bị quân ta tấn công cứ điểm Tú Thuỷ vào ngày 13.4.1947, để trả đũa, ngày 2.7.1947, địch huy động 2.000 quân Pháp, có đại bác, xe bọc thép yểm trợ, chia làm 3 cánh, tấn công đánh chiếm Phú Phong (huyện Bình Khê). Cánh thứ nhất từ Cửu An đánh xuống Định Nhì, Định Quang, bị Trung đoàn 94 của ta chặn đánh, tiêu diệt 200 tên. Cánh thứ hai từ Cửu An qua Eo Gió, Đồng Hào, Tiên Thuận xuống đèo Bồ Bồ thì bị Đại đội 10, Trung đoàn 95 giật mìn, nổ súng tiêu diệt 150 tên. Cánh thứ ba từ đèo An Khê theo đường 19 xuống Vườn Xoài, Đồng Phó, Phú Phong bị sập hầm chông, hàng chục tên địch bỏ xác. Trong khi đó, hậu cứ An Khê của địch bị Đại đội Tây Sơn liên tục đánh phá. Sau 4 ngày hành quân không thể chiếm được vùng tự do Bình Định, quân số lại bị thương vong nặng nề, quân Pháp buộc phải rút hết về An Khê.
Chiến thắng Bồ Bồ đánh bại cuộc càn quét của gần 2.000 quân Pháp vào các xã phía tây huyện Bình Khê, đã góp phần bảo vệ vững chắc vùng tự do Bình Định trong 9 năm kháng chiến chống Pháp..
Du ngoạn đèo Bồ Bồ, tuy không thấy dấu tích về chiến công xưa của quân đội ta, nhưng du khách lại có thể cảm nhận được địa thế hiểm trở, kỳ vĩ của một vùng rừng núi đã làm nên Chiến thắng.
Di tích Chiến thắng Chợ Cát
Chợ Cát nay thuộc địa phận thôn Tân Thạnh, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn, nằm cách quốc lộ IA chừng 1 km và cách ga Tam Quan khoảng 2 km về phía tây nam. Nơi đây, thời kháng chiến chống Pháp đã diễn ra một trận thắng rất vang dội của quân ta đánh bại cuộc hành quân càn quét của quân viễn chinh Pháp.
Năm 1949, quân Pháp ngày càng lúng túng, bị động trên khắp các chiến trường khu V. Địch liều lĩnh mở các cuộc hành quân quy mô lớn đánh vào hậu phương ta, nhằm làm giảm bớt sức ép của quân ta đối với chúng tại chiến trường Bắc Tây Nguyên. Chúng chọn Tam Quan, một vùng trù phú, đông dân cư, nằm trên một đầu mối giao thông huyết mạch, có ga xe lửa và hệ thống kho tàng của ta, làm mục tiêu tấn công đánh chiếm.
Khoảng 1 giờ sáng ngày 20.7.1949, Pháp cho tàu chiến bất ngờ đổ quân lên bờ biển Tam Quan. Chúng chia làm 3 mũi tiến công. Mũi thứ nhất với lực lượng một tiểu đoàn đổ bộ lên Bãi Ngang thuộc xã Hoài Thanh, rồi từ thôn Lâm Trúc, qua Gò Tháp, Tăng Long, Đại Hoá, vượt quốc lộ IA, chiếm Chợ Cát, xây dựng công sự dã chiến, án ngữ mặt tây nam ga Tam Quan. Mũi thứ hai có một đại đội đổ bộ lên Vĩnh Tuy (thuộc xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi), chiếm đèo Bình Đê rồi thọc vào chiếm ga Chương Hoà (xã Hoài Châu, huyện Hoài Nhơn), đốt phá các đầu máy và toa xe lửa; sau đó tiến vào cướp phá hai thôn Tân Định, Tân Thạnh (xã Hoài Hảo). Mũi thứ ba là mũi chính diện đổ bộ lên khu vực Thiện Chánh, Trường Xuân rồi tiến thẳng đến ga Tam Quan, dự định sẽ hợp điểm với cánh quân thứ nhất.
Lực lượng tại chỗ của ta lúc đó chỉ có Đại đội 8 thuộc Trung đoàn 210, 1 đại đội bộ đội địa phương huyện Hoài Nhơn và dân quân du kích các xã Hoài Hảo, Hoài Châu, Hoài Thanh, Tam Quan. Trước những đợt tấn công ồ ạt của quân Pháp, các chiến sĩ ta linh hoạt phân tán thành nhiều đơn vị nhỏ, phục kích chặn đánh địch khắp mọi nơi, gây cho chúng những tổn thất nặng nề, nhất là ở Tân Thạnh, Phước Lộc và Tam Quan. Tiểu đoàn 50 thuộc Trung đoàn 210 vừa từ Bắc Tây Nguyên về đóng quân tại xã Hoài Xuân được lệnh chi viện các đơn vị tại chỗ. Đại đội 51 của Tiểu đoàn 50 tiến ra Hoài Hảo đánh nhau với một tiểu đoàn địch đang đóng giữ tại đây. Bất chấp sự chênh lệch về lực lượng và hoả lực, các chiến sĩ ta đã anh dũng chiến đấu với tinh thần quyết tử. Chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt. Quân ta bị thương vong nặng; đồng chí Đại đội trưởng hy sinh tại chỗ. Tại Chợ Cát, du kích Tam Quan, Hoài Hảo phối hợp với Tiểu đoàn 50 tấn công địch mãnh liệt, diệt 80 tên. Tại Trường Xuân, Tân Thạnh, Chương Hoà, du kích và bộ đội địa phương huyện Hoài Nhơn bám đánh, chia cắt địch, giáng cho chúng những đòn tơi tả. Không chịu nổi những đợt tấn công quyết liệt của bộ đội ta, tiểu đoàn quân Pháp phải rút về co cụm tại ga Tam Quan. Quân ta dùng pháo 75 ly và cối 81 ly pháo kích dữ dội vào sở chỉ huy địch ở ga Tam Quan, làm cho chúng bị thương vong nặng nề. Cùng lúc đó, lực lượng lớn của Trung đoàn 210 do đồng chí Đàm Quang Trung chỉ huy cấp tốc hành quân đến Tam Quan chi viện.
Đứng trước nguy cơ có thể bị tiêu diệt hoàn toàn, bộ binh Pháp phải cầu cứu tàu chiến đang đậu ngoài cửa biển Tam Quan bắn pháo yểm trợ để rạng sáng ngày 21.7.1949, chúng tháo chạy ra bãi biển Thiện Chánh (Tam Quan Bắc) lên tàu thuỷ rút lui, cam chịu thất bại. Trên 200 tên địch, trong đó có 1 trung uý và 2 thiếu uý Pháp bị diệt.
Chiến thắng Chợ Cát là một mốc son đánh dấu sự trưởng thành của quân đội ta trong kháng chiến chống Pháp, là niềm tự hào của quân dân tỉnh Bình Định và huyện Hoài Nhơn với thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc. Tại chiến trường Chợ Cát năm xưa, còn tồn tại cây bàng cổ thụ lịch sử, nơi treo cờ Đảng trong cuộc biểu tình năm 1930-1931.
Chợ Cát đã được Uỷ ban Nhân dân tỉnh ra quyết định xếp hạng Di tích Lịch sử. Hiện nay, Di tích Chiến thắng Chợ Cát chỉ là một tấm Bia Chiến thắng. Trên mảnh đất thân thương nầy đã có 50 chiến sĩ anh hùng vĩnh viễn nằm lại, và trong dân gian còn lưu truyền bài thơ đầy tinh thần quyết thắng:”Hai mươi, giặc đến Tam Quan, Hai mốt, có vệ quốc đoàn đánh ngay. Giặc đến, giặc buộc phải đi, Toàn dân kháng chiến, giặc gì cũng tan”.
Di tích Chiến thắng Đèo Nhông-Dương Liễu
Đèo Nhông nằm trên quốc lộ IA, đoạn đi ngang qua hai xã Mỹ Phong và Mỹ Trinh, huyện Phù Mỹ. Trên đỉnh Đèo, thuộc địa phận thôn Vân Trường, xã Mỹ Phong, một Tượng đài cao 10m đứng oai phong, lẫm liệt giữa núi ngàn, dưới trời xanh lồng lộng. Tượng đài diễn tả một chiến sĩ giải phóng quân cùng một du kích trong tư thế xông lên diệt giặc. Phần đế tượng đài là những phù điêu đắp nổi diễn tả lại trận đánh với sự hợp lực của ba thứ quân. Đó là Di tích Chiến thắng Đèo Nhông - Dương Liễu ngày 8.2.1964 của quân dân Bình Định.
Cuối năm 1964, kế hoạch Mác Namara của Mỹ-nguỵ đứng trước nguy cơ phá sản. Để cứu vãn tình thế, địch tăng cường lực lượng, đẩy mạnh tấn công càn quét các vùng giải phóng. Trên chiến trường Bình Định, địch tăng số cố vấn Mỹ lên gấp đôi; đẩy mạnh đôn quân, bắt lính, tăng cường lực lượng, ráo riết chuẩn bị mở cuộc hành quân lớn từ Phù Mỹ ra tới Hoài Nhơn. Nắm được ý đồ nói trên của địch, Bộ Tư lệnh khu V chủ động lập phương án tác chiến, quyết tâm đánh bại kế hoạch càn quét lấn chiếm của Mỹ-nguỵ. Chiến trường được chọn là Đèo Nhông, đơn vị chủ công trận đánh là Trung đoàn 2, Sư đoàn 3 quân Giải phóng khu V.
Đèo Nhông trải dài từ dốc Mù U ở phía bắc đến dốc Me ở phía nam, khoảng 6 km. Trận địa phục kích được bố trí rải ra từ đèo Mã Đá đến cầu Mặt Sạn. Lực lượng vũ trang Phù Mỹ được bố trí thành 2 cánh, phục sẵn ở hai đầu Đèo, sẵn sàng hỗ trợ cho bộ đội chủ lực. Cánh phía bắc ở thôn Vân Trường, xã Mỹ Phong; cánh phía nam ở thôn Diêm Tiêu, xã Mỹ Trinh.
Đêm 6, rạng sáng ngày 7.2.1964, quân ta chủ động nổ súng tấn công cứ điểm Dương Liễu, nằm cách Đèo Nhông 4 km về phía bắc do 1 đại đội bảo an và 3 trung đội dân vệ trấn giữ. Chỉ trong vài giờ, Đại đội 72 bộ đội địa phương tỉnh phối hợp với một đơn vị của Trung đoàn 2 đã san phẳng cứ điểm nầy, tiêu diệt gọn 195 tên địch, thu 169 súng các loại, giành thế chủ động, chờ tiêu diệt quân viện của địch.
Đúng như dự kiến của ta, sáng sớm ngày 8.2, 2 tiểu đoàn nguỵ cùng 1 chi đoàn xe bọc thép M113 từ Phù Mỹ kéo ra, lọt vào trận địa mai phục của quân ta. Trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt. Với tinh thần chiến đấu anh dũng và ngoan cường, đến 5 giờ chiều, quân ta tiêu diệt hoàn toàn lực lượng ứng cứu, đập tan âm mưu càn quét lấn chiếm ra phía bắc của địch.
Tính cả trận phục kích tại Đèo Nhông và trận tấn công tiêu diệt cứ điểm Dương Liễu, quân ta đã xoá sổ 2 tiểu đoàn quân nguỵ và 1 chi đoàn xe bọc thép; tiêu diệt và bắt sống 958 tên địch, trong đó có toàn bộ Ban Chỉ huy, đứng đầu là tên Đại uý cố vấn Mỹ; bắn cháy 10 chiếc và chiếm nguyên vẹn 1 chiếc xe bọc thép M113; thu 391 súng các loại.
Chiến thắng Đèo Nhông-Dương Liễu, một kỷ lục tiêu diệt quân chủ lực địch ngoài công sự, đã góp phần đánh bại chiến thuật “Trực thăng vận” và “Thiết xa vận”, con ách chủ bài địch sử dụng để cứu vãn nguy cơ phá sản của chiến tranh đặc biệt.
Tháng 2 năm 1985, nhân kỷ niệm 20 năm Chiến thắng Đèo Nhông-Dương Liễu, quân dân huyện Phù Mỹ tổ chức trọng thể lễ khánh thành Tượng đà -Di tích Chiến thắng vang dội nói trên. Từ đó đến nay, vào ngày mùng 5 Tết Nguyên đán, nhân dân các địa phương trong vùng, tập trung về đây (có năm đông hàng vạn người), mở Lễ hội vui xuân kỷ niệm Ngày chiến thắng.
Di tích Chiến thắng Đệ Đức
Di tích Chiến thắng Đệ Đức (xã Hoài Tân, huyện Hoài Nhơn) không chỉ có ý nghĩa giáo dục truyền thống mà còn là một địa điểm du lịch rất hấp dẫn, nhất là đối với những cựu chiến binh đã từng có mặt ở đây trong kháng chiến chống Mỹ.
Đệ Đức là một căn cứ quân sự quan trọng của Mỹ-nguỵ, nằm áp sát quốc lộ IA và đường sắt xuyên Việt, đoạn từ ga Bồng Sơn ra Tam Quan. Để xây dựng căn cứ nầy, địch đã cho san ủi 4 quả đồi thấp thuộc địa phận các thôn Giao Hội, An Dưỡng và Đệ Đức của xã Hoài Tân, lập ra một hệ thống công sự liên hoàn và các lô cốt phòng thủ kiên cố. Tại đây có một trận địa pháo với 12 khẩu 105 mm và 155 mm. Phía chân đồi An Dưỡng, chỗ giáp quốc lộ IA, có một sân bay dã chiến, đường băng chính dài 1 km, máy bay vận tải C130 có thể lên xuống. Trong thời kỳ chiến tranh cục bộ (1965-1972), đây là căn cứ của Lữ đoàn Dù 173 của Mỹ, sau chúng giao lại cho Trung đoàn 40, Sư 22 nguỵ.
Nằm ở một vị trí hiểm yếu, với lực lượng trấn giữ khá mạnh, căn cứ Đệ Đức khống chế cả một vùng rộng lớn từ Tam Quan đến Bồng Sơn, từ các vùng nằm phía tây đến đông quốc lộ IA.
Trong chiến dịch Xuân-Hè 1972, Bộ Chỉ huy Quân khu V quyết định tấn công tiêu diệt căn cứ Đệ Đức nhằm tạo thế cho quần chúng nhân dân nổi dậy giải phóng đại bộ phận các xã của huyện Hoài Nhơn. Ngày 29/4/1972, Sư đoàn 3 quân Giải phóng, bất ngờ nổ súng đánh vào thị trấn Bồng Sơn. Mặc dù lực lượng địch vẫn còn đông (trên 1.200 quân), nhưng vì tinh thần chúng sa sút trước những chiến thắng vang dội của quân Giải phóng trên chiến trường Bắc Bình Định, giải phóng hoàn toàn huyện Hoài Ân, nên địch chống cự rất yếu ớt. Đúng 1 giờ trưa hôm ấy, quân ta làm chủ hoàn toàn huyện lỵ Hoài Nhơn. Chớp thời cơ, nhân dân các xã Hoài Châu, Hoài Hảo, Tam Quan, Hoài Thanh, Hoài Hương đồng loạt nổi dậy, tấn công, bức rút tất cả các chốt điểm phía bắc căn cứ Đệ Đức, giải phóng hoàn toàn các xã bắc Hoài Nhơn, tạo thành vòng vây siết chặt căn cứ Đệ Đức từ 4 phía.
0 giờ 30 ngày 2.5.1972, Trung đoàn 2 và Trung đoàn 12, Sư đoàn 3 quân Giải phóng, phối hợp với bộ đội địa phương, dùng pháo 105 thu được của địch trong chiến dịch giải phóng Hoài Ân dồn dập bắn vào các mục tiêu nằm trong căn cứ Đệ Đức. Một kho xăng địch bị trúng đạn, bốc cháy, cả căn cứ chìm trong khói lửa. Tiếp đó, đài ra đa, khu vực thông tin, sân bay, sở chỉ huy, trại lính địch... cũng liên tiếp bị trúng đạn. Bị ta pháo kích áp đảo, địch hầu như không thể phát huy được hoả lực vốn rất mạnh đang có trong tay. Được pháo binh yểm trợ, các tiểu đoàn bộ binh của ta ào ạt xông lên. Sau hơn một giờ chiến đấu, quân ta chia cắt được lực lượng địch, tiêu diệt trên 600 tên. Dựa vào những công sự kiên cố, địch liều chết kháng cự. Chúng cho máy bay đến oanh tạc dữ dội hòng ngăn chặn bước tiến của quân ta và trấn an tinh thần quân nguỵ trong căn cứ. Sau một ngày chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt, đến 5 giờ 40 phút chiều 2.5.1972, tiếng súng trong căn cứ Đệ Đức im bặt. Quân ta hoàn toàn làm chủ căn cứ.
Di tích Chiến thắng Gò Loi
Chiến thắng Gò Loi có ý nghĩa vô cùng quan trọng là tạo thế, tạo đà, tạo thời cơ thuận lợi cho quân dân ta giải phóng hoàn toàn huyện Hoài Ân vào năm 1972.
Gò Loi nằm về phía bắc xã Ân Tường, huyện Hoài Ân, án ngữ một ngả ba đường, nơi gặp nhau của hai trục giao thông quan trọng. Đó là tỉnh lộ 630 nối liền với quận lỵ Hoài Ân nằm ở phía bắc, cách khoảng 6 km, rồi từ đó, chạy song song với sông Kim Sơn, cắt quốc lộ IA ở phía nam thị trấn Bồng Sơn, và tỉnh lộ 631 nối các xã Ân Hữu, Ân Nghĩa ở phía tây. Từ đây có đường dẫn tới căn cứ cách mạng Dốc Bà Bơi và quốc lộ IA ở phía đông nam tại Trà Lương, nằm phía bắc quận lỵ Phù Mỹ.
Lợi dụng địa hình đất đồi cao, rộng khoảng 4.000 m2, năm 1966, Mỹ cho xây dựng tại Gò Loi một cứ điểm kiên cố bậc nhất ở khu vực Bắc Bình Định, nhằm khống chế một vùng chiến lược rộng lớn là vùng giáp ranh giữa đồng bằng và miền núi, giữa căn cứ cách mạng và vùng địch tạm chiếm. Từ chân đồi lên đến đỉnh, địch xây dựng một hệ thống 3 tầng lô cốt hình vành khăn, tầng nầy cách tầng kia bởi một dốc dựng đứng cao 3m, được bảo vệ bằng hàng rào thép gai bùng nhùng và những bãi mìn dày đặc. Tại đây có một trận địa pháo và một sân bay dã chiến dài 600m, rộng 60m. Hệ thống công sự bê tông nối liền giữa các lô cốt và hầm ngầm tích trữ vũ khí, lương thực, được xây dựng rất kiên cố. Vòng ngoài căn cứ Gò Loi còn có cả một hệ thống chốt bảo vệ ở đồi Dây Ren, đồi Đá, gò Dê, gò Thị, cầu Bến Vách, bàu Sen...
Gò Loi là căn cứ phòng thủ phía nam quận lỵ Hoài Ân, cũng là nơi xuất phát các cuộc hành quân đánh phá vùng giải phóng và là nơi pháo binh địch thường xuyên nã đạn vào hậu cứ cách mạng, gây cho ta nhiều tổn thất, khó khăn, trở ngại. Địch ngạo mạn tuyên bố rằng: “Bao giờ nước sông Kim Sơn chảy ngược thì Việt Cộng mới đánh được Gò Loi”
Xác định vị trí chiến lược của căn cứ Gò Loi trong hệ thống phòng thủ của địch ở Bắc Bình Định, Bộ chỉ huy Quân khu V và Tỉnh uỷ Bình Định quyết định chọn Gò Loi làm điểm đột phá trên chiến trường Bình Định trong chiến dịch Xuân-Hè 1972. Sư đoàn 3 quân Giải phóng được giao trọng trách làm đơn vị chủ công trận đánh Gò Loi.
Đêm 8 rạng ngày 9.4.1972, quân ta bất ngờ tấn công căn cứ Gò Loi. Chỉ trong vòng chưa đầy một ngày, quân ta đã tiêu diệt toàn bộ liên đội bảo an số 48 và 1 trung đội thám báo đóng giữ tại đây, làm chủ hoàn toàn trận địa; thu hàng tấn vũ khí, quân trang, quân dụng. Hai ngày 10-11, địch liên tiếp cho bộ binh và trực thăng vũ trang phản kích, nhưng đều bị đánh bại: thêm 4 đại đội quân nguỵ bị tiêu diệt, 12 máy bay lên thẳng bị bắn rơi, nhiều xe quân sự bị bắn cháy. Căn cứ Gò Loi bị tiêu diệt, toàn bộ xã Ân Tường rộng lớn được hoàn toàn giải phóng, như một đòn điểm huyệt khiến toàn bộ lực lượng dịch ở Bắc Bình Định hoang mang, lo sợ, rúng động.
Sau khi Gò Loi bị thất thủ, các cuộc phản kích bị bẻ gãy, địch vội vàng gom 2 tiểu đoàn bộ binh và 1 chi đoàn xe bọc thép, lập ra Chiến đoàn đặc nhiệm 40 với quyết tâm tái chiếm Gò Loi. Ngày 13.4.1972, địch bố trí lực lượng tại Hòn Bồ, truông Gò Bông và thôn Khoa Trường (xã Ân Đức) nằm phía tây Hòn Bồ, làm bàn đạp tấn công, tái chiếm Gò Loi. Trung đoàn 2 thuộc Sư đoàn 3 quân ta lập tức chặn đánh địch ngay tại các điểm xuất phát nói trên. Mờ sáng ngày 15.2, quân ta nhất loạt nổ súng tấn công Hòn Bồ, truông Gò Bông. Quân địch bị chia cắt ngay từ đầu, không thể ứng cứu cho nhau, chúng buộc phải tháo chạy về Khoa Trường. Tại đây, toàn bộ Chiến đoàn đặc nhiệm 40 vừa thành lập được 3 ngày đã bị xoá sổ.
Gò Loi, Hòn Bồ, truông Cây Bông bị tiêu diệt, cánh cửa phòng thủ phía nam huyện Hoài Ân đã mở toang.
Sư đoàn 3 quân Giải phóng được lệnh tấn công tiêu diệt và giải phóng chi khu-quận lỵ Hoài Ân. Đêm 17.4 quân ta tiến đánh Núi Một là cứ điểm bảo vệ trực tiếp mặt nam quận lỵ, mở đầu trận công kích chi khu quân sự Hoài Ân. Địch tập trung hoả lực bắn rát vào nơi cửa mở dày đặc rào thép gai bùng nhùng, quân ta không sao tiến lên được. Trung đội phó Lê Xuân Toàn đã mưu trí và dũng cảm băng lên, nằm vắt ngang hàng rào thép gai, lấy thân mình làm cầu cho đồng đội xông lên. Tấm bình phong phía nam chi khu Hoài Ân bị đập vỡ; vòng vây quận lỵ bị siết chặt 4 phía. Biết không thể chống nổi, sáng ngày 19/4, quân địch trong quận lỵ vội vàng tháo chạy về hướng Bồng Sơn. Chúng bị quân ta truy kích tiêu diệt gần như toàn bộ trên đường rút lui.
Đúng 11 giờ ngày 19.4.1972, quân ta hoàn toàn chiếm lĩnh Chi khu-quận lỵ Hoài Ân. Cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng tung bay trên đỉnh cột cờ trước sân quận đường. Chớp lấy thời cơ thuận lợi, nhân dân các xã bị địch chiếm nhất tề vùng lên giành chính quyền về tay cách mạng.
Tính từ khi quân ta bắt đầu tấn công cứ điểm Gò Loi đến khi giải phóng huyện Hoài Ân, chỉ trong vòng 10 ngày đầu của chiến dịch Xuân Hè 1972 (có mật danh AI), quân dân Bình Định đã tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu 3.000 tên địch, giải phóng hoàn toàn huyện Hoài Ân rộng lớn có 18.000 dân, là nơi nuôi dưỡng lực lượng cách mạng và cũng là địa phương bị địch chà đi, xát lại trong nhiều năm qua. Huyện Hoài Ân, huyện đồng bằng đầu tiên của khu V được giải phóng hoàn toàn, trở thành bàn đạp vững chắc của quân dân Bình Định trong kháng chiến chống Mỹ.
Hiện nay, tại các địa danh Gò Loi, Hòn Bồ, truông Gò Bông…òn Bồ, truôngvẫn còn các di tích lịch sử sống động nói lên những chiến công hiển hách của Sư đoàn 3 quân Giải phóng anh hùng.
Tại Gò Loi, cây xanh đã phủ kín chiến hào, nhưng dấu tích của một căn cứ quân sự kiên cố với hệ thống công sự, hầm ngầm, lô cốt, sân bay, đường giao thông nội bộ... vẫn còn đó. Trong màu xanh tươi bạt ngàn, tràn đầy sức sống, một Tượng đài Chiến thắng hoành tráng có khắc đậm nét mấy dòng chữ “9.4.1972, Chiến thắng Gò Loi” đã được xây dựng để tôn vinh chiến công oanh liệt năm xưa. Đặc biệt, tại phòng truyền thống của huyện, hiện còn lưu giữ một hiện vật quý. Đó là khẩu súng B40 mà chiến sĩ đặc công Nguyễn Bé Ba đã dùng để bắn quả đạn đầu tiên mở màn trận tập kích.
Trên đỉnh Hòn Bồ hiện vẫn còn dấu vết những lô cốt dã chiến xây bằng bao cát đang mục nát dần theo năm tháng và đây đó còn vương lại những đoạn hàng rào kẽm gai đã rỉ sét.
Di tích Chiến thắng Nhơn Tịnh-Xuân Sơn
Hai quả đồi Nhơn Tịnh, Xuân Sơn nằm trên địa phận xã Ân Hữu, huyện Hoài Ân, là những nơi còn ghi lại chiến công oai hùng của Sư đoàn 3 Sao vàng trong kháng chiến chống Mỹ.
Nằm ở thôn Xuân Sơn, xã Ân Hữu, đồi Nhơn Tịnh là cửa ngõ phía đông căn cứ Bà Bơi, nơi Sư đoàn 3 đã làm lễ khai sinh. Trong chiến dịch mùa khô lần thứ nhất, 1965-1966, đế quốc Mỹ đã chọn đồi nầy làm địa điểm đổ bộ của một cánh quân. Ngày11.2.1966, sau khi cho máy bay phản lực và hàng trăm trực thăng bắn phá ác liệt khu vực đồi Nhơn Tịnh, hai tiểu đoàn quân Mỹ liền đổ xuống. Ngay lập tức, chúng bị Tiểu đoàn Súng máy cao xạ 12,7 ly của Sư 3 đánh trả quyết liệt. 5 trực thăng vũ trang, 1 máy bay phản lực của địch bị bắn rơi; hàng chục lính Mỹ bị tiêu diệt. Chiến thuật “Trực thăng vận” của quân Mỹ bị thất bại.
Đến mùa khô lần thứ hai, 1966-1967, Nhơn Tịnh một lần nữa trở thành nơi giao tranh quyết liệt giữa ta và địch. Thất bại trong chiến thuật “Trực thăng vận”, địch chuyển sang sử dụng chiến thuật “Điểm tựa”. Chúng đùng máy bay ném bom huỷ diệt, tạo ra các vùng trắng rồi thả lô cốt, dây thép gai xuống đồi Xuân Sơn (cách Nhơn Tịnh chưa đầy 300m) để xây dựng cứ điểm làm điểm tựa đánh phá căn cứ của ta. Tại Xuân Sơn, địch bố trí một trận địa pháo gồm 12 khẩu 105 ly và 155 ly; xây dựng nhiều công sự kiên cố và hàng chục lớp hàng rào dây kẽm gai có gài mìn bao quanh. Cùng với pháo binh, trên đồi Xuân Sơn còn có 1tiểu đoàn bộ binh, 1trung đội công binh; tổng số quân địch có mặt tại cứ điểm này là 650 tên Hằng ngày, địch cho máy bay trinh sát và trực thăng vũ trang thường xuyên bay lượn dò xét và bắn phá.
Quyết không để cho địch làm mưa làm gió ở khu vực gần căn cứ của ta, Trung đoàn 22, Sư đoàn 3 quân Giải phóng, được lệnh tấn công tiêu diệt cứ điểm địch ở đồi Xuân Sơn. Đêm 25 rạng ngày 26/1/1966, hoả lực ta gồm súng cối 82 ly, DKZ 75 ly và súng máy cao xạ hạ nòng bắn thẳng, bất ngờ dội bão lửa xuống đầu quân địch. Bị áp chế đột ngột, chúng trở tay không kịp, đội hình bị tan tác. Quân ta ào ạt xông lên. Chỉ trong vòng 15 phút, các chiến sĩ Trung đoàn 22 đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch đóng tại cứ điểm, hoàn toàn làm chủ trận địa. Ngay trong đêm hôm đó, pháo địch từ các trận địa khác cấp tập bắn vào đồi Xuân Sơn. Đồng thời, chúng cấp tốc điều động Lữ đoàn 3 thuộc Sư 25 nguỵ phối hợp với lực lượng Sư đoàn Kỵ binh bay số I của Mỹ, kéo đến phản kích. Sau 5 ngày đêm chiến đấu liên tục vô cùng ác liệt, quân ta vẫn giữ vững trận địa và làm chủ thế trận; tiêu diệt 1 tiểu đoàn quân Mỹ và một bộ phận đáng kể quân nguỵ. Để bảo toàn lực lượng, Sư trưởng Sư đoàn 25 nguỵ hạ lệnh cho quân nguỵ rút lui về hậu cứ.
Chiến thắng Nhơn Tịnh-Xuân Sơn, bẻ gãy chiến thuật “trực thăng vận” và chiến thuật “điểm tựa” của Mỹ-nguỵ, đã cổ vũ mạnh mẽ quân dân Bình Định nêu cao quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ trong hai chiến dịch mùa khô 1965-1967 và trong chiến tranh cục bộ.
Năm tháng qua đi, di tích chiến công xưa của Trung đoàn 22, Sư đoàn 3 hầu như không còn mấy. Đây đó trên hai quả đồi Xuân Sơn và Nhơn Tịnh chỉ còn sót lại những đoạn dây thép gai rỉ sét, những bao tải ni lông đã mục nát, những đoạn hào đã sập lở. Nhưng đứng trên đồi Nhơn Tịnh nhìn ra dòng sông Nước Lương uốn khúc chảy quanh, đứng trên đồi Xuân Sơn ngắm nhìn màu xanh bát ngát, mênh mông của núi rừng, đồng ruộng Ân Hữu, ta cảm thấy không khí hào hùng của chiến thắng năm xưa như vẫn còn đâu đây.
Di tích Chiến thắng Núi Một
Núi Một là một hòn độc sơn nằm án ngữ ở phía tây bắc thành phố Quy Nhơn là Di tích Chiến thắng tháng 4.1972 của D30, Thị đội Quy Nhơn.
Núi Một là căn cứ quân sự của Mỹ-nguỵ có hệ thống công sự, hầm hào kiên cố. Bao quanh căn cứ có 5 lớp rào kẽm gai, giữa có các hố chông sắt và mìn hỗn hợp. Lối vào căn cứ được bảo vệ nghiêm ngặt với các bốt gác dày đặc và hệ thống chiếu sáng mạnh vào ban đêm. Sau khi Mỹ rút khỏi căn cứ nầy, Tiểu đoàn 209 quân nguỵ đến đóng giữ.
Trong chiến dịch Xuân-Hè 1972, Tỉnh uỷ Bình Định quyết định tập kích vào Quy Nhơn, đánh ngay vào hậu cứ của địch để phân tán lực lượng địch và hạn chế tối đa khả năng chi viện của chúng đối với mặt trận Bắc Bình Định. Trong trận tấn công nầy, núi Một được chọn làm mục tiêu chủ yếu.
D30 Thị đội Quy Nhơn được giao nhiệm vụ phối hợp với Đại đội 598, đặc công nước, tổ chức trận đánh. 3 giờ chiều ngày 11/4/1972, từ căn cứ Núi Bà, quân ta tiến về Quy Nhơn, tiếp cận mục tiêu. Đúng 1 giờ ngày 12/4, các chiến sĩ D30 bất ngờ đột nhập vào căn cứ, dùng thủ pháo tấn công nhà chỉ huy, tiêu diệt toàn bộ Ban Chỉ huy đại đội bảo an và bộ phận điện đài. Dịch không kịp trở tay chống trả. Quân ta dùng thủ pháo tiếp tục tấn công các mục tiêu khác. Cùng lúc đó, một bộ phận của Đại đội 598, đặc công nước tập kích khu kho tại quân cảng Quy Nhơn, một bộ phận khác đánh chiếm khu vực ngả ba Đống Đa khiến địch vô cùng hoảng loạn.
Trận đánh phối hợp nhịp nhàng diễn ra chỉ trong vòng 15 phút, căn cứ núi Một bị san phẳng; 120 tên địch bị diệt. Chiến thắng núi Một đã làm rối loạn hậu cứ địch, buộc chúng phải tăng cường lực lượng phòng thủ Quy Nhơn, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị chủ lực của ta đánh mạnh quân địch ở Hoài Ân và Bắc Hoài Nhơn.
Di tích Chiến thắng Phù Ly
Địa danh Phù Ly xuất hiện rất sớm trong lịch sử Bình Định. Thời Lê Thánh Tông, năm 1471, Phù Ly là một trong 3 huyện đầu tiên của phủ Hoài Nhơn (về sau là tỉnh Bình Định). Đến năm 1832, Minh Mạng chia huyện Phù Ly thành hai huyện Phù Cát và Phù Mỹ, Phù Ly không còn là một đơn vị hành chánh cấp huyện, nhưng địa danh Phù Ly vẫn được nhiều người biết đến như sông Phù Ly, chợ Phù Ly, miếu Phù Ly, cầu Phù Ly, đặc biệt là Chiến thắng Phù Ly năm 1948.
Thời kháng chiến chống Pháp, Bình Định là tỉnh tự do, là hậu phương của chiến trường khu V. Phù Cát, Phù Mỹ là hai huyện nằm giữa tỉnh Bình Định có vị trí quan trọng cả về quân sự lẫn hậu cần. Do đó, năm 1948, thực dân Pháp đã tiến hành một kế hoạch tấn công càn quét quy mô lớn vào khu vực giữa hai huyện nói trên.
Để đánh lạc hướng quân ta, địch cho đổ bộ một đơn vị nghi binh lên bãi biển Vĩnh Tuy (xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi). Ngày 31/7, chúng huy động một lực lượng lớn bao gồm cả hải, lục, không quân tấn công vào vùng giáp ranh giữa hai huyện Phù Mỹ, Phù Cát. Từ sáng sớm, tàu chiến địch vào cửa Đề Gi, pháo binh địch bắn yểm trợ cho quân đổ bộ lên bờ. Phối hợp với cánh quân tiến từ đường biển lên đất liền, 10 máy bay đa-cô-ta thả 120 lính dù xuống cánh đồng thôn Khánh Lộc (xã Cát Hanh, huyện Phù Cát) và 100 lính dù khác đổ bộ xuống cánh đồng thôn An Lạc (xã Mỹ Hoà, huyện Phù Mỹ) và sân vận động Phù Mỹ.Tại cửa biển Đề Gi, tàu chiến địch đổ thêm hai đại đội hợp cùng số quân trước, chia làm hai cánh, tiến theo trục đường Đề Gi-Chợ Gồm và Đề Gi-An Lương để hợp điểm tại Phù Ly.
Ngay từ đầu, quân địch đã bị các lực lượng vũ trang nhân dân ta chặn đánh tơi tả. Các chiến sĩ Tiểu đoàn 50 do Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Lập chỉ huy, trong đó có Đại đội 51A do Quach Tử Hấp làm Đại đội trưởng quầng đánh nhau với địch ở chợ Phù Ly; Đại đội 51B do đồng chí Lương Trung chỉ huy, đánh địch quyết liệt tại miếu Phù Ly. Đại đội Tây Sơn, bộ đội địa phương tỉnh do đồng chí Nguyễn Văn Đật chỉ huy chiến đấu dũng cảm với địch tại Khánh Lộc. Tại Phù Ly, Tiểu đội trưởng Thăng dùng lưỡi lê đâm chết tại chỗ tên quan chỉ huy cuộc hành quân. Xã đội trưởng Bùi Thanh Độ (một nông dân thôn Bình Long, xã Mỹ Hiệp) dũng cảm dùng đòn gánh đánh chết một tên quan lính dù Pháp, rồi bỏ chạy.
Trong trận Phù Ly, 330 tên địch bị tiêu diệt tại chỗ, trong đó có 1 quan tư và 2 quan hai. Ta thu được nhiều vũ khí và quân trang, quân dụng. Kế hoạch càn quét lấn chiếm của Pháp hoàn toàn thất bại. Rạng sáng ngày 1/8, chúng tháo chạy về cửa Đề Gi, rút lui bằng đường biển.
Di tích Chiến thắng Phù Ly oanh liệt năm xưa, nay chỉ còn những địa danh như thôn Phù Ly, chợ Phù Ly; miếu Phù Ly đã bị sụp đổ chỉ còn lại nền, sông Phù Ly đã bị bồi cạn.
Di tích Chiến thắng Suối Vối-Rộc Dừa
Tiếng bom Ngô Mây ở Suối Vối-Rộc Dừa, tiếng bom cảm tử đầu tiên ở chiến trường khu V, bẻ gãy cuộc hành quân càn quét, lấn chiếm của thực dân Pháp vào vùng tự do Bình Định, mãi mãi là niềm kiêu hãnh và tự hào của nhân dân ta.
Để ổn định các vùng địch chiếm đóng ở An Khê và Tây Nguyên, cuối năm 1947, thực dân Pháp đẩy mạnh càn quét vào vùng tự do Bình Định. Ngày 12.11.1947, quân Pháp từ An Khê tràn xuống các xã tây Bình Khê.
Đại đội 51A được giao nhiệm vụ tổ chức phục kích chặn đánh địch ở khu vực Suối Vối-Rộc Dừa. Lực lượng đánh địch gồm ba tổ: tổ hoả lực có 3 trung liên, 2 tiểu liên; tổ đánh bom gồm 3 chiến sĩ Mây, Vi, Tường và tổ vận tải gồm 9 chiến sĩ. Khi quân địch lọt vào trận địa phục kích tại Suối Vối thì quân ta nổ súng. Quân Pháp đông hơn ta gấp nhiều lần, dựa vào hoả lực rất mạnh, ào ạt tấn công vào trận địa quân ta. Cuộc chiến đấu không cân sức diễn ra vô cùng ác liệt, gay cấn; quân ta đứng trước nguy cơ bị địch tiêu diệt gọn. Trong tình thế hiểm nghèo, chiến sĩ Ngô Mây, cổ quàng chiếc khăn đỏ bật dậy, ôm bom lao thẳng vào đội hình địch. Bom nổ làm rúng động núi rừng. Hơn 40 tên lính Âu Phi và 22 xe địch tan xác. Quân địch kinh hoàng, vội giẫm đạp lên nhau tháo chạy về An Khê. Cuộc càn quét của địch bị thất bại.
Nay tại Suối Vối-Rộc Dừa không thấy còn để lại một dấu tích gì, cũng không thấy có một tấm bia ghi lại chiến công oanh liệt năm xưa, nhưng tiếng bom cảm tử của anh hùng Ngô Mây, một biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là điểm son mãi mãi sáng chói trong lịch sử kháng chiến của quân dân Bình Định.
Di tích Chiến thắng Thuận Ninh
Thuận Ninh là nơi diễn ra trận đánh thắng quân Mỹ đầu tiên trên chiến trường Bình Định khi chúng bắt đầu thực hiện chiến lược “Tìm diệt“.
Thuận Ninh là một thung lũng, nay thuộc xã Bình Tân, huyện Tây Sơn, nằm ở phía đông huyện, giáp ranh huyện Phù Cát. Địa hình tự nhiên đã làm cho thung lũng có một vị trí lợi hại. Núi non trùng điệp vây bọc bốn bề tạo nên vẻ kín đáo, nhưng không cách biệt với bên ngoài. Phia đông thung lũng có đường nối thông với quốc lộ IA. Đoạn tiếp giáp giữa hai huyện Tây Sơn và Phù Cát có một hẻm núi được tạo ra bởi núi Thương ở mặt bắc và Hòn Khỉ ở mặt nam, giống như hai tấm lá chắn khống chế đường ra vào thung lũng.. Phía nam thung lũng có đường đi xuống các xã ven quốc lộ 19. Phía tây, núi non trùng điệp, nhưng lại có một con đèo có tên là Bồ Bồ, ngăn cách hai ngọn núi Nước Đỏ và Bạc Má, là con đường độc đạo đi đến các xã ven sông Côn thuộc địa phận huyện Vĩnh Thạnh. Ở phía tây bắc Thuận Ninh có một quả núi nhỏ, tục gọi là Ba Gò.
Truyền thuyết dân gian kể rằng, sau khi nhà Tây Sơn bị Nguyễn Ánh đánh bại, một hôm vào nửa đêm, nhân dân địa phương bỗng nghe thấy tiếng kèn trống từ phía nam vọng tới. Có người thức dậy rình xem, thì thấy có đoàn người vác cờ, khiêng kiệu đi về phía chân núi Ba Gò, sau đó biến mất và tiếng kèn trống cũng im bặt. Từ đó trở đi, dân làng đồn rằng núi Ba Gò chính là nơi giấu hài cốt vua Thái Đức Nguyễn Nhạc. Vì vậy mà Ba Gò còn được gọi là khu Lăng, rất thiêng, không mấy ai dám đến.
Do có địa thế hiểm yếu nhưng lại thuận tiện về mặt giao thông nên khi dựng cờ Cần Vương, Mai Xuân Thưởng đã chọn Thuận Ninh làm một hậu cứ quan trọng của nghĩa quân. Nơi đây, còn di tích Bắc Trại với cánh đồng rộng mênh mông ở Đồng Quan; dưới chân Hòn Khỉ là nơi nghĩa quân tăng gia sản xuất, tích trữ lương thực và luyện quân. Phia nam Bắc Trại có Truông Xe là con đường vận chuyển lương thực của nghĩa quân. Có lẽ vì nơi đây là căn cứ đóng quân quan trọng của nghĩa quân Mai Xuân Thưởng, nên Thuận Ninh còn có tên là Đồng Đồn.
Thời kháng chiến chống Mỹ, Thuận Ninh là an toàn khu của Tỉnh uỷ Bình Định và Huyện uỷ Tây Sơn. Đây cũng là địa bàn đóng quân luyện tập của các đơn vị lực lượng vũ trang. Tháng 8.1965, Tiểu đoàn 95, thuộc Sư đoàn 3 quân Giải phóng khu V và một số đơn vị bộ đội địa phương đóng quân tại Thuận Ninh.
Ngay sau khi mới nhảy vào chiến trường Bình Định, quân Mỹ đã bất ngờ tập kích vào Thuận Ninh. Sáng ngày 19.8.1965, địch cho máy bay và trọng pháo oanh kích dữ dội thung lũng Thuận Ninh. Tiếp đó, 60 máy bay trực thăng ồ ạt đổ 2.000 lính dù Mỹ thuộc Lữ đoàn số 101. Đây là cuộc đổ bộ đường không lớn đầu tiên của Mỹ trên chiến trường Bình Định.
Mặc dù lực lượng vũ trang ta ít hơn về quân số, kém hơn về hoả lực và trang bị vũ khí, nhưng các chiến sĩ Tiểu đoàn 95 sát cánh cùng bộ đội địa phương và dân quân du kích đã triệt để lợi dụng địa hình, phân tán thành các phân đội nhỏ, chặn đánh địch quyết liệt. Trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt và giằng co từ sáng đến chiều tối. Quân ta vẫn giữ vững trận địa. Trước tinh thần chiến đấu ngoan cường và những đòn đánh trả sấm sét của quân Giải phóng, quân Mỹ buộc phải rút lui với những tổn thất nặng nề: 200 lính Mỹ bị tiêu diệt; 11 máy bay bị bắn rơi. Sau trận thua đau tại Thuận Ninh, quân Mỹ thừa nhận: ”Quân Giải phóng và du kích ở thung lũng Thuận Ninh đánh rất giỏi, được tổ chức tốt và có kỷ luật cao...”.
Chiến thắng Thuận Ninh, trận đầu đánh thắng quân viễn chinh Mỹ, đã góp phần giải quyết tư tưởng sợ Mỹ đang rất nặng nề trong cán bộ, bộ đội và nhân dân ta, mở ra thời kỳ tìm Mỹ, nắm thắt lưng Mỹ mà đánh, giành nhiều chiến công vang dội.
Nay cảnh vật Di tích chiến thắng Thuận Ninh đã hoàn toàn thay đổi. Thay vì một thung lũng với những cánh đồng xanh ngát, xen lẫn những xóm cư dân Việt và Ba Na cùng nhau sinh sống, là một hồ chứa nước mênh mông. Vùng hậu cứ năm xưa đã từng chở che, nuôi dưỡng cách mạng, nay đã hoá thân thành một công trình thuỷ lợi kỳ vĩ đem nguồn nước mát tưới cho biết bao cánh đồng lúa xanh tươi. Dấu tích của chiến trường thắng Mỹ năm xưa chỉ còn sót lại một vài đoạn chiến hào trên các đồi quanh hồ, nhưng tinh thần chiến đấu quả cảm, sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng của bộ đội Cụ Hồ đời đời bất tử.
Di tích Dốc Bà Bơi
Dốc Bà Bơi là địa điểm thành lập Sư đoàn 3 quân Giải phóng khu V trong kháng chiến chống Mỹ (nay là Sư đoàn Sao Vàng, Quân đoàn I). Đó là một căn cứ nằm sâu trong địa phận làng Bok Tới (khi đó có mật danh là T2), thuộc xã Ân Nghĩa, huyện Hoài Ân.
Từ đầu năm 1965, trước yêu cầu đẩy mạnh giáp công 3 mũi, đi đôi với phát triển mạnh bộ đội địa phương, dân quân du kích, mở rộng các hình thức và quy mô đấu tranh chính trị, vũ trang, binh vận, việc tổ chức bộ đội chủ lực, tạo thành những “ quả đấm thép ”, đủ sức đương đầu và đánh thắng các đơn vị thiện chiến của Mỹ và chư hầu, trở thành một đòi hỏi cấp thiết của chiến trường khu V. Đúng ngày Quốc khánh 2 tháng 9 năm 1965, tại dốc Bà Bơi, lễ thành lập Sư đoàn 3 đã được tiến hành đơn giản, nhưng trang nghiêm với sự có mặt của lãnh đạo tỉnh Bình Định và huyện Hoài Ân.
Sư đoàn 3 được xây dựng từ 3 trung đoàn chủ lực trước đó đã từng dày dạn chiến công:
- Trung đoàn 2 ra đời tháng 5.1962, đã lập nhiều chiến công trên chiến trường Quảng Ngãi, bắc Tây Nguyên. Đặc biệt trên chiến trường Bình Định, Trung đoàn là đơn vị chủ công làm nên chiến thắng Đèo Nhông-Dương Liễu (8.2.1965).
- Trung đoàn 12 là một đơn vị giàu truyền thống, được thành lập năm 1947 trên đất Bình-Trị-Thiên. Trung đoàn đã tham gia hầu hết các chiến dịch lớn trên chiến trường Miền Trung, chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954; đã lập nhiều chiến công vang dội trên đường 19, góp phần đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ-nguỵ.
- Trung đoàn 22 vốn là một đơn vị quân chủ lực được thành lập ở Miền Bắc vào mùa hè 1965. Khi vào chiến đấu trên chiến trường Miền Nam, Trung đoàn được bổ sung thêm Tiểu đoàn 8 quân chủ lục khu V. Trung đoàn đã lập nên nhiều chiến công oanh liệt, đặc biệt là chiến thắng Ba Gia, Quảng Ngãi lịch sử.
Từ khi thành lập đến khi Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Sư đoàn 3 thực sự trở thành nòng cốt của lực lượng vũ trang Quân khu V. Trên chiến trường Bình Định, chỉ tính riêng mùa khô 1966, Sư đoàn đã tiêu diệt gần 7.500 tên địch, trong đó có gần 4.000 lính Mỹ và 330 lính Đại Hàn.; bắn rơi và phá huỷ 187 máy bay; bắn cháy và phá huỷ 6 khẩu trọng pháo, 29 xe quân sự. Sư đoàn đã lập nhiều chiến công trong chiến dịch mùa khô 1967, chiến dịch Xuân-Hè 1972, và đặc biệt là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử Xuân năm 1975.
Chiến công nối tiếp chiến công, năm 1975, Sư đoàn được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Dốc Bà Bơi là một Di tích lịch sử đáng tự hào. Đến với Di tích nầy, không chỉ là dịp hành hương về cái nôi đã sinh ra một Sư đoàn quân Giải phóng anh hùng, nay được mang tên Sư đoàn 3 Sao Vàng, mà còn là dịp thăm lại một căn cứ địa cách mạng kiên trung của nhân dân Bình Định trong kháng chiến chống Mỹ.
Di tích Đài Phát thanh
Di tích Đàì Phát thanh (của nguỵ quyền tỉnh Bình Định trước đây) ngày nay nằm trong khuôn viên khu nhà số 183, đường Lê Hồng Phong, trụ sở Sở Văn Hoá-Thông tin tỉnh (nay là Sở Văn hoá-Thể thao-Du lịch).
Đầu năm 1968, chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, tối ngày 30 tết Mậu Thân, nhằm ngày 29.1.1968, Tiểu đoàn 50, Tiểu đoàn đặc công D10 tập kết tại căn cứ Hưng Thạnh, xuất kích, đột nhập vào thị xã Quy Nhơn. Đúng 0 giờ ngày 29.1, tiếng súng quân Giải phóng tấn công các mục tiêu trong nội thị rền vang hoà cùng tiếng pháo đón giao thừa của nhân dân. Cuộc tập kích vào khu Quân Trấn diễn ra mau lẹ. 22 cán bộ ta, trong đó có Bí thư Thị uỷ Biên Cương bị địch bắt giam trước Tết, đã được giải thoát. Liền sau đó, quân ta tấn công đánh chiếm đài Phát thanh của địch, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch, có 2 tên Mỹ đang làm nhiệm vụ bảo vệ đài. Quân ta làm chủ hoàn toàn khu vực nầy. Cùng lúc đó, các mũi tấn công khác đánh vào dinh Tỉnh trưởng, đồn Cảnh sát Bạch Đằng, kho quân sự Đèo Son. Bị đánh hết sức bất ngờ, quân địch hoang mang, dao động cao độ, gần như bị tê liệt, không thể kịp thời ứng cứu cho nhau.
Mãi đến sáng hôm sau, 30.1, địch mới điều được quân từ các nơi khác đến cứu viện. Những trận chiến đấu của quân ta giáng trả các đợt phản kích của địch diễn ra rất giằng co, ác liệt. Tại khu chiến đài Phát thanh, với khẩu hiệu “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, các chiến sĩ đặc công D10 đã kiên cường bám trụ, đánh lui nhiều đợt phản kích của địch có xe bọc thép yểm trợ. Sau 5 ngày chiến đấu vô cùng dũng cảm, kiên cường, do lực lượng ta quá mỏng, vũ khí lại thiếu thốn, đạn dược không còn, hai cán bộ lãnh đạo, chỉ huy là Biên Cương và Võ Mười hy sinh, nên cuộc chiến đấu của các chiến sĩ ta không thể tiếp tục được nữa. Quân địch chiếm lại đài Phát thanh.
Đài Phát thanh nguỵ quyền tỉnh Bình Định đã bị trúng đạn, sập đổ tù năm 1968, nay không còn lại dấu vết gì. Dãy nhà hai tầng phía sau, tuy đã cải tạo, nhưng về cơ bản vẫn giữ nguyên cấu trúc Đài Phát thanh khi diễn ra trận đánh năm 1968. Năm 1977, một ngôi nhà 2 tầng mới đã được xây dựng thêm cạnh đó. Ở ngay trước sân ngôi nhà nầy, một tấm Bia Di tích, cao 2m, rộng 1,5m đã được dựng lên vào năm 1988 để ghi lại chiến công của các chiến sĩ đã đánh chiếm và làm chủ đài Phát thanh địch nhiều ngày trong cuộc tổng tấn công, nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.
Di tích Đồi Mười
Trong kháng chiến chống Mỹ, Bắc Hoài Nhơn là địa bàn trọng yếu của ta và cũng là nơi địch ra sức phòng thủ, đánh phá. Cuối năm 1964, trước những thất bại nặng nề về quân sự, nhất là trước phong trào đồng khởi của quân dân Bình Định giải phóng đại bộ phận vùng nông thôn đồng bằng, Mỹ-nguỵ ra sức xây dựng các căn cứ quân sự quanh quận lỵ Tam Quan nhằm khống chế khu vực Bắc Hoài Nhơn, trong đó có căn cứ rất quan trọng là Đồi 10.
Đồi 10 là một quả đồi cao 36m, thuộc cấm Hang Dơi ở thôn Gia An, xã Hoài Châu, huỵện Hoài Nhơn. Tại thôn Gia An vốn có một hang sâu, trong đó có rất nhiều dơi sinh sống. Cấm Hang Dơi gồm hai quả đồi: một ở phía tây, nằm trong hệ thống phòng thủ của quân nguỵ, gọi là đồi 9, một ở phía đông, được đặt tên là Đồi 10.
Vừa là một căn cứ pháo binh với hoả lực mạnh có thể yểm trợ cho các cuộc càn quét, vừa là một tuyến phòng thủ vững chắc để quân địch các nơi rút về đây co cụm lại, Đồi 10 là tấm lá chắn phía bắc cho căn cứ Đệ Đức, là cao điểm có thể kiểm soát quốc lộ IA và ngăn chặn con đường huyết mạch của ta nối từ phía tây Hoài Nhơn đến các địa bàn phía đông. Sự tồn tại của cứ điểm nầy đã gây cho ta rất nhiều khó khăn, trở ngại.
Đầu năm 1965, phát huy khí thế chiến thắng Đeo Nhông-Dương Liễu, quân ta tấn công tiêu diệt Đồi 10. Chỉ trong vòng 90 phút bị tập kích bất ngờ, toàn bộ quân địch co cụm tại cứ điểm nầy, gồm 1 đại đội bảo an, 4 trung đội dân vệ cùng bọn nguỵ quyền ác ôn của hai xã Hoài Châu và Hoài Sơn đều bị tiêu diệt. Quân ta thu được 2 khẩu pháo 195 ly, 2 xe vận tải quân sự và nhiều vũ khí, đạn dược. Cứ điểm Đồi 10 bị diệt làm nức lòng nhân dân Hoài Nhơn.
Nhân cơ hội địch hoang mang cao độ, đồng bào nhất tề nổi dậy giành quyền làm chủ quận lỵ Tam Quan, bức hàng, bức rút, giải phóng hoàn toàn các xã Hoài Châu, Hoài Thanh, Tam Quan Nam, Tam Quan Bắc. Quân địch rút chạy về co cụm tại căn cứ Đệ Đức, lại bị quân ta tấn công dữ dội. Chỉ trong một thời gian ngắn, ta giải phóng thêm 8 xã thuộc huyện Hoài Nhơn. Chiến thắng Đồi 10 có ý nghĩa rất quan trọng, làm thay đổi hoàn toàn cán cân lực lượng giữa ta và địch ở Hoài Nhơn, có lợi cho ta.
Do cứ điểm Đồi 10 có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, nên đến tháng 5.1965, địch tập trung lực lượng đánh chiếm lại cứ điểm nầy. Cuộc chiến giằng co, ác liệt kéo dài cả tháng. Vì không chịu nổi sức ép bị quân ta bao vây, bắn tỉa, đến tháng 6.1965, chúng lại phải rút chạy lần nữa.
Trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất, 1965-1966, địch coi vùng Bắc Bình Định là trọng điểm đánh phá. Chúng đổ vào chiến trường nầy hơn 2 vạn quân viễn chinh Mỹ và Nam Triều Tiên, hàng chục tiểu đoàn pháo binh, thiết giáp và 500 máy bay chiến đấu. Thực thi chiến lược “ tìm diệt ”, coi Bắc Hoài Nhơn là một mũi tấn công quan trọng, được sự yểm trợ tối đa của phi pháo, có cả pháo đài bay B52, 8 giờ sáng ngày 28.1.1966, Sư đoàn Không vận số I của Mỹ ào ạt tấn công vùng Bắc Hoài Nhơn. Sau khi máy bay B52 ném bom rải thảm vào khu vực núi Hương Nhượng, địch cho trực thăng vũ trang oanh tạc và xe bọc thép đột kích vào Hoài Hảo, Hoài Châu, Tam Quan.
Trận chiến tại Đồi 10 diễn ra vô cùng ác liệt. Lực lượng ta chốt giữ Đồi 10 là Đại đội 71 thuộc Tiểu đoàn 7 và một số chiến sĩ bộ đội địa phương. Sau hai ngày chống trả quyết liệt với một lực lượng địch đông và mạnh hơn ta gấp nhiều lần, đại bộ phận các chiến sĩ ta đều hy sinh, chỉ còn lại 3 người, trong đó có Trung đội trưởng Phạm Ngọc Yểng. Khi thấy quân ta hết đạn, quân địch ào lên định bắt sống. Các chiến sĩ ta, mỗi người cầm một quả lựu đạn, bình tĩnh đập gãy súng không để lọt vào tay giặc, cùng nhau thề quyết chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Chiều ngày 30.1.1966, địch từ 4 phía ào ạt xông lên. Chờ cho chúng đến thật gần, các chiến sĩ ta ném 2 quả lựu đạn, làm chết 7 tên. Trong lúc quân địch đang rối loạn, Trung đội trưởng Phạm Ngọc Yểng cùng hai chiến sĩ bỗng đứng bật dậy, tay giương cao quả lựu đạn cuối cùng, miệng hát vang bài Giải phóng Miền Nam. Khí phách hiên ngang của các chiến sĩ quân Giải phóng đã làm quân địch hoảng sợ. Chúng không dám tiếp tục xông lên mà tụt dần xuống chân đồi. Hình ảnh 3 chiến sĩ Đồi 10 trước giờ phút hy sinh vẫn hiên ngang nhìn thẳng vào quân thù, hát vang bài ca Giải phóng luôn sống mãi với quân dân huyện Hoài Nhơn và tỉnh Bình Định.
Đôi 10 còn chứng kiến những tấm gương sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng và những chiến thắng vang dội của chiến sĩ và đồng bào ta. Trong cuộc tổng tấn công, nổi dậy Tết Mậu Thân, 1968, khi địch ném lựu đạn vào đồng bào ta đang bao vậy cứ điểm Đồi 10, ông Ngô Bàn đã lập tức lao ra lấy thân mình đè lên lựu đạn, nhận lấy cái chết về phần mình, cứu bà con ta khỏi bị thương vong. Ngày 29.10.1972, bộ đội địa phương Hoài Nhơn phối hợp cùng du kích xã, tập kích Đồi 10, tiêu diệt 23 tên, bắn cháy 2 xe tăng địch. Trong chiến dịch mùa Xuân 1975, ngày 7.3.1975, quân và dân địa phương liên tục bao vây, gây sức ép lên cứ điểm Đồi 10, buộc địch phải rút chạy hoàn toàn vào đêm 25/3/1975. Đó là ngày Đồi 10 vĩnh viễn sạch bóng quân thù.
Di tích Đồi 10 mãi mãi là niềm kiêu hãnh, tự hào của các thế hệ người dân huyện Hoài Nhơn và tỉnh Bình Định.
Di tích Gò Mả Tổ
Gò Mả Tổ (phường Đập Đá, thị xã An Nhơn) là nơi yên nghỉ của 153 chiến sĩ Trung đoàn 12, Sư đoàn 3 quân Giải phóng đã anh dũng hy sinh trong trận tập kích vào Đập Đá, ngày 19.1.1968, trước Tết Mậu Thân.
Đập Đá là một tụ điểm kinh tế khá phát triển của An Nhơn, nằm ngay sát thành Đồ Bàn xưa, trên đường quốc lộ IA; cách vài cây số về phía tây có đường sắt xuyên Việt. Mặt bắc có cầu qua sông Dài, mặt nam, trên một đoạn đường dài gần 4 km có tới 4 cây cầu bắc qua sông Côn và các phụ lưu. Chiếm giữ được Đập Đá, ta có thể khống chế hoàn toàn hai con đường huyết mạch (đường bộ và đường sắt) từ bắc vào nam và trực tiếp uy hiếp địch ở thị xã Quy Nhơn.
Trong chiến dịch Tết Mậu Thân-1968, Ban Chỉ huy chiến dịch tại Bình Định đã chọn Đập Đá làm một điểm tấn công, đánh chiếm, nhằm hỗ trợ cho đô thị tổng công kích và nổi dậy. Trung đoàn 12, Sư đoàn 3 quân khu V, được giao trọng trách chủ công đánh chiếm Đập Đá.
Khi ta bắt đầu triển khai chuyển quân tiếp cận mục tiêu thì địch đánh hơi, nên đã tăng cường lực lượng phòng thủ. Ngoài 1 trung đoàn lính Đại Hàn, thuộc Sư đoàn Mãnh Hổ, 4 đại đội bảo an, 32 xe tăng, xe bọc thép, còn có lực lượng không quân và tàu chiến lớn đang áp sát bờ biển Quy Nhơn, sẵn sàng trợ chiến cho lực lượng địch đóng tại Đập Đá. Đêm 19.1.1968, chỉ còn chưa đầy 10 ngày nữa thì đến Tết Mậu Thân, Trung đoàn 12 vào ém quân tại Phương Danh Nam. Trong lúc quân ta đang tiến hành đào công sự chuẩn bị chiến đấu thì địch bất ngờ đánh tập hậu. Chúng bung ba lớp dây thép gai bùng nhùng vây kín trận địa quân ta. Trong tình thế vô cùng bất lợi, bị bao vây và bị phi pháo địch oanh kích dữ dội, nêu cao tinh thần quyết tử, quân ta đã chiến đấu rất ngoan cường. Trong 5 ngày đêm quầng nhau với địch, quân ta luôn giữ vững trận địa. Xác địch chết chồng chất lên nhau. Nơi diễn ra những trận đánh ác liệt nhất là trận địa tiểu đoàn 6. Trong công sự của quân ta lúc nào cũng mịt mù khói đạn. Không còn lương ăn, thiếu nước uống, dù đói khát, nhưng các chiến sĩ ta vẫn kiên cường giáng trả địch những đòn trừng trị đích đáng. Các chiến sĩ bị thương vẫn cắn răng chịu đựng, sát cánh cùng đồng đội chiến đấu. Hết đạn, các chiến sĩ ta dùng lưỡi lê, cuốc xẻng, dao rựa... đánh giáp lá cà với địch. Có những lúc ta chỉ có 1 mà phải chống chọi đến 50 tên địch, nhưng các chiến sĩ Giải phóng quân vẫn kiên cường chiến đấu đến giọt máu cuối cùng.
Trận quân ta tập kích Đập Đá không giành được thắng lợi mong muốn, nhưng với tinh thần dũng cảm vô song, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, các chiến sĩ Trung đoàn 12 đã làm cho quân địch vô cùng khiếp sợ. Ta đã tiêu diệt 300 tên địch, trong đó có 200 tên lính Nam Triều Tiên; bắn cháy 2 máy bay lên thẳng, 4 xe tăng, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề. Trong trận chiến đấu nầy, 153 chiến sĩ Trung đoàn 12, Sư đoàn 3 đã vĩnh viễn nằm lại Đập Đá. Thi hài các liệt sĩ đã được mai táng tại Gò Mả Tổ thôn Phương Danh.
Để tưởng nhớ những người con có công với nước, với dân, năm 1994, trên phần đất các chiến sĩ ta đã yên nghỉ, một ngôi mộ lớn ốp đá khang trang đã được xây dựng với diện tích 270 m2 trên khuôn viên 9,8m x 8,9m. Phía bên trái ngôi mộ có tấm bia đá lấy từ chùa Non Nước (Quảng Nam) khắc họ tên 153 liệt sĩ; bên phải là một tượng đá hình lá cờ đang tung bay trước gió. Trên nền cờ đỏ thắm có tạc dòng chữ Đời đời nhớ ơn 153 liệt sĩ Sư đoàn Sao Vàng.
Di tích Hòn Chùa
Phía bắc thôn Đại An, xã Nhơn Mỹ, thị xã An Nhơn có một dãy đồi gọi là đồi Đại An. Trong mạch đồi Đại An có một ngọn đồi nằm cách đường cái quan một bãi đất rộng. Dân địa phương gọi là Hòn Chùa, còn sách Đại Nam nhất thống chí thì gọi là Gò Chùa: ”Gò Chùa ở thôn Đại An phía bắc huyện, trước có chùa nên gọi tên như thế, bốn mặt gò là dân cư...”. Hòn Chùa Đại An là nơi sinh ra Chi bộ Hồng Lĩnh, tiền thân của Đảng bộ huyện Bình Khê (nay là Tây Sơn), huyện An Nhơn và huyện Phù Cát.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập (3.2.1930), tại tỉnh Bình Định, các chi bộ Cộng sản đầu tiên lần lượt ra đời tại Nhà máy Đèn Quy Nhơn, làng Cửu Lợi và Trường Collège de Quy Nhơn, trực tiếp lãnh đạo quần chúng nhân dân đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ. Sau các đợt khủng bố trắng của địch những năm 1930-1931, các chi bộ Đảng đều bị bể vỡ, nhiều cán bộ, đảng viên bị địch bắt giam cầm, giết hại. Những năm từ 1932-1935 là thời kỳ đầy khó khăn đối với phong trào cách mạng tỉnh Bình Định.
Tháng 4.1936, khi Mặt trận Bình dân Pháp thắng cử, chính phủ Pháp thực thi một số chính sách tiến bộ đối với các nước thuộc địa, trong đó có việc thả tù chính trị ở Đông Dương. Một số tù chính trị quê Bình Định bị giam tại các nhà lao Quy Nhơn, Buôn Ma Thuột, Kon Tum được trao trả tự do. Thoát khỏi nhà tù thực dân, các chiến sĩ Cộng sản, dù bị quản thúc tại quê nhà, nhưng vẫn khôn khéo tìm mọi cách nhen nhóm lực lượng và khôi phục phong trào cách mạng tại địa phương.
Tại An Nhơn, đồng chí Huỳnh Đăng Thơ sau khi ra khỏi nhà tù Kon Tum, trở về quê nhà, bắt tay vào việc tuyên truyền, giác ngộ một số thanh niên và nông dân có tinh thần đấu tranh chống bất công, áp bức ở các làng Đại An, Đại Bình (An Nhơn), An Vinh, Thủ Thiện (Bình Khê), trên cơ sở đó, giới thiệu kết nạp những người ưu tú vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Khi đã có đủ số đảng viên cần thiết, đồng chí Huỳnh Đăng Thơ đề nghị chi bộ Đảng ở La Hai (Phú Yên) cùng mình đứng ra thành lập chi bộ Đảng mang tên Chi bộ Hồng Lĩnh. Địa điểm thành lập là Hòn Đại An, tức Hòn Chùa; ngày thành lập là 20.10.1936; địa bàn hoạt động là các xã của An Nhơn, Bình Khê và Nam Phù Cát. Lúc đầu Chi bộ có 7 đảng viên, do đồng chí Nguyễn Mân làm Bí thư. Vì còn bị địch quản thúc nên đồng chí Huỳnh Đăng Thơ không trực tiếp làm Bí thư, nhưng vẫn có vai trò quan trọng đối với Chi bộ.
Từ một lực lượng rất mỏng, Chi bộ Hồng Lĩnh phát triển thêm nhiều đảng viên và nhiều tổ chức quần chúng cách mạng. Đến cuối năm 1937, vì số lượng đảng viên quá đông, Chi bộ Hồng Lĩnh tách chia thành hai chi bộ, một của An Nhơn-Nam Phù Cát và một của Bình Khê. Các tổ chức quần chúng cách mạng như Công hội Đỏ, Nông hội Dỏ lần lượt ra đời ở nhiều làng trong các huyện nói trên.với hàng trăm hội viên.
Trong giai đoạn phong trào cách mạng Bình Định đang gặp nhiều khó khăn, sự ra đời của Chi bộ Hồng Lĩnh, được Xứ uỷ Trung kỳ công nhận chính thức và giao trọng trách tích cực góp phần khôi phục hệ thống tổ chức Đảng và phong trào cách mạng tỉnh nhà, là một sự kiện có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với Đảng bộ Bình Định thời bấy giờ.
Di tích Khách sạn Việt Cường
Trên đường Gia Long trước đây (nay là Trần Hưng Đạo), con đường chính nối thành phố Quy Nhơn với quốc lộ IA, số nhà 464 là một khách sạn 3 tầng mang tên Việt Cường. Tại nơi đây, đêm 10.2.1965, bộ đội đặc công D10 của tỉnh đã lập một chiến công vang dội, tiêu diệt và làm bị thương hơn 55 tên địch, trong đó phần lớn là sĩ quan, cố vấn Mỹ.
Trước tình hình quân nguỵ ngày càng rệu rã, đế quốc Mỹ quyết định tăng thêm lực lượng cố vấn Mỹ ở tỉnh Bình Định. Thị xã Quy Nhơn trở thành hậu cứ của chúng. Khu uỷ V và Tỉnh uỷ Bình Định chủ trương xây dựng các mũi giáp công ngay trong nội thị, đánh thẳng vào những nơi địch cho là an toàn nhất. Thực hiện chủ trương ấy, Tiểu đoàn đặc công D10 lấy mật danh là Doàn Sông Trường, được thành lập tại Hưng Thạnh; các đội du kích nội thị và mạng lưới liên lạc cũng được hình thành. Nắm biết tình hình bọn cố vấn Mỹ thường tập trung tại khách sạn Việt Cường để ăn nhậu, vui chơi, Lãnh đạo khu và tỉnh quyết định chọn khách sạn nầy làm mục tiêu tấn công.
Khi có tin báo tối ngày 10.2.1965, bọn cố vấn Mỹ sẽ tập trung tại khách sạn Việt Cường, Tiểu đoàn đặc công được lệnh sẵn sàng thực hiện phương án tác chiến đã định. Khoảng 6 giờ chiều hôm đó, mũi tiến công chính diện gồm 6 chiến sĩ, cải trang làm thường dân, mang theo 2 túi du lịch đựng 60 kg bộc phá, tập kết đến điểm hẹn tại ngả ba hẻm Rau Muống, trên đường Gia Long. Tại đây, 3 chiếc xích lô chờ sẵn lập tức chở các chiến sĩ đến mục tiêu. Hai chiếc xích lô đi đầu vừa tới cửa khách sạn, 3 chiến sĩ ta liền nhảy xuống, xả súng tiêu diệt bọn gác cổng. Cùng lúc đó, 1 chiến sĩ lao vào, đặt bộc phá ở chân cột chính của tầng lầu. Địch từ trên lầu và 2 lô cốt bên cạnh vội ném lựu đạn và bắn xối xả. Chiếc xích lô thứ ba của ta bị trúng đạn. Đúng lúc đó, một tiếng nổ vang trời làm sập toà nhà, tiêu diệt và làm bị thương hầu như tất cả bọn Mỹ có mặt tại đây. Ta có 2 chiến sĩ hy sinh và 1 bị thương.
Bằng trận tấn công chớp nhoáng trong vòng 10 phút, các chiến sĩ đặc công D10 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Khi viết hồi ký, viên Đại tướng Tổng tham mưu Liên quân My, VVestmoreland thừa nhận: ”Đây là số thương vong nhiều nhất của Mỹ xảy ra trong riêng một sự kiện“.
Tên Khách sạn Việt Cương vẫn còn đó, nhưng toà nhà chứng kiến chiến công vang dội năm xưa của quân Giải phóng đã bị phá sập. Một tấm Biển di tích nói lên chiến thắng ngày 10.2.1965 đã được gắn lên tường của khách sạn được xây lại.
Di tích Khởi nghĩa Tờ Lok-Tờ Lek
Tờ Lok, Tờ Lek, hai làng đồng bào Ba Na, nay thuộc hai xã Vĩnh Thịnh và Vĩnh Hiệp, huyện Vĩnh Thạnh là những địa phương đầu tiên của tỉnh Bình Định nổ ra cuộc nổi dậy khởi nghĩa từng phần giành quyền làm chủ về tay nhân dân trong thời kỳ đen tối nhất của cách mạng Miền Nam,1955-1959.
Thực thi cái gọi là quốc sách “tố Cộng, diệt Cộng“, chính quyền Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ đàn áp, tàn sát đẫm máu các chiến sĩ cách mạng và đồng bào yêu nước. Nhân dân ta đã cùng nhau đoàn kết đứng lên đấu tranh chống địch quyết liệt.
Tháng 5.1955, Mỹ Diệm đưa quân lên huyện miền núi Vĩnh Thạnh hòng thiết lập ách cai trị của chúng, nhưng đã bị nhân dân kiên quyết chống lại. Chúng chuyển sang chính sách cưỡng bức nhân dân vào các trại tập trung để thực hiện chiến dịch “tố Cộng, diệt Cộng”. Các làng Hà Ri, Tờ Lok, Tờ Lek được chúng chọn làm thí điểm.
Tờ Lok, Tờ Lek là hai làng có truyền thống cách mạng; thời kháng chiến chống Pháp có nhiều cán bộ, đảng viên nhất huyện; có hơn 300 gia đình có con em tập kết ra Miền Bắc. Đây cũng là địa bàn Tỉnh uỷ Bình Định chọn làm căn cứ trong những năm đầu của cách mạng Miền Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, nhân dân hai làng đã sử dụng mọi hình thức đấu tranh không cho địch dồn dân, lập ấp. Nhân dân xây dựng làng chiến đấu, đào hầm chông, gài cạm bẫy, mang cung; tự tạo vũ khi thô sơ, trang bị cho thanh niên sẵn sàng chống trả quân địch càn quét vào làng. Vấp phải sự chống đối quyết liệt của dân làng, nên mãi đến cuối năm 1958, địch vẫn không thể thực hiện được âm mưu dồn dân, lập ấp.
Năm 1959, địch chủ trương dùng quân đội thẳng tay đàn áp nhân dân hai làng nói trên. Sáng ngày 6.2.1959, Quận trưởng Vĩnh Thạnh ra lệnh cho một trung đội bảo an đánh vào làng. Du kích Tờ Lok, Tờ Lek đã dũng cảm đánh trả, tiêu diệt và làm bị thương nhiều tên địch, trong đó có tên ác ôn Đinh On dẫn đường. Địch đành phải rút lui. Không cam chịu thất bại, địch tăng thêm quân, mở cuộc hành quân quy mô lớn vào ngày 17.3.1959.. Suốt từ 10 giờ sáng đến 4 giờ chiều, địch liên tiếp mở nhiều đợt tấn công, nhưng vẫn không thể vào làng. 5 tên địch bị chết tại chỗ, trong đó có tên trung uý chỉ huy, 24 tên khác bị thương. Địch huy động máy bay đến ném bom yểm trợ và tàn phá làng mạc, nhưng cuối cùng vẫn chịu thất bại, buộc phải rút lui.
Từ thắng lợi của nhân dân Tờ Lok, Tờ Lek, đồng bào dân tộc các xã trong huyện Vĩnh Thạnh đã sôi nổi vùng lên giành quyền làm chủ núi rừng bằng phương châm đấu tranh hai chân, giáp công ba mũi. Đến đầu năm 1960 thì huyện Vĩnh Thạnh hoàn toàn giải phóng trở thành căn cứ vững chắc của quân dân Bình Định trong kháng chiến chống Mỹ.
Cuộc nổi dậy của nhân dân hai xã Tờ Lok, Tờ Lek và của đồng bào các dân tộc huyện Vĩnh Thạnh đầu năm 1959 là hình mẫu cuộc khởi nghĩa từng phần trong sự nghiệp cách mạng giải phóng Miền Nam.
Ngày nay, cuộc sống của hai làng Tờ Lok. Tờ Lek đã đổi thay. Nhưng khung cảnh nơi diễn ra những trận chiến đấu ác liệt vẫn còn đó bên bờ suối Cau Hình. Thế núi non hiểm trở bao quanh khu vực Nước Ló, những hốc đá đã từng là nơi đồng bào Tờ Lok, Tờ Lek mai phục đánh địch, lập nên chiến công vang dội, luôn sống mãi với thời gian, luôn trường tồn cùng núi rừng Vĩnh Thạnh anh hùng.
Di tích Làng Cửu Lợi
Di tích nơi thành lập Chi bộ Cửu Lợi, hiện nay nằm ở thôn Cửu Lợi Tây, xã Tam Quan Nam, huyện Hoài Nhơn.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3.2.1930), tháng 8.1930, Chi bộ Cửu Lợi, Chi bộ Cộng sản đầu tiên của huyện Hoài Nhơn được thành lập tại nhà đống chí Tôn Chất (dưới gốc một cây dừa, sát ven đầm Nước Lợ, sau nầy còn có tên là Chợ Cầu), ở làng Cửu Lợi, nay thuộc xã Tam Quan Nam. Chi bộ có 5 đảng viên do đồng chí Nguyễn Trân làm Bí thư. Đến tháng 11.1930, Chi bộ kết nạp thêm nhiều đảng viên, đưa số đảng viên trong toàn huyện lên 40 người. Cuối năm 1930, huỵện Hoài Nhơn có 6 chi bộ Đảng: Chi bộ Cửu Lợi, Chi bộ Bình Thạnh, Chi bộ Chương Hoà, Chi bộ Ân Đỗ, Chi bộ Tấn Thạnh và Chi bộ Tài Lương. Các cơ sở và tổ chức quần chúng cách mạng ngày càng phát triển. Đảng bộ Hoài Nhơn, đảng bộ cấp huyện đầu tiên của tỉnh Bình Định ra đời.
Ngay sau khi ra đời, Chi bộ đã trực tiếp lãnh đạo quần chúng nhân dân đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, đặc biệt là trong dịp kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1.5.1931, kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga và cuộc vận động Ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Sau các đợt khủng bố trắng 1930-1931, Chi bộ Cửu Lợi bị bể vỡ, đến cuối năm 1932 mới được tái lập.
Sự ra đời của Chi bộ Cửu Lợi đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào cách mạng huyện Hoài Nhơn và tỉnh Bình Định. Địa danh Cửu Lợi là niềm tự hào không chỉ của Đảng bộ và nhân dân huyện Hoài Nhơn mà còn là của cả tỉnh Bình Định.
Di tích Nhà lao số 9
Nhà lao số 9, còn gọi là nhà lao Hoà Thoại, nơi giam giữ những chiến sĩ cách mạng trong kháng chiến chống Mỹ, thực sự là một địa ngục trần gian. Di tích trên nằm tại nhà số 9 đường Đào Duy Từ, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Quy Nhơn.
Theo hồi ức của những tù nhân còn sống sót, thi hình thức giam cầm tại xà lim số 1, nhà lao số 9 là vô cùng rùng rợn, khủng khiếp, không kém bất kỳ một nhà lao nào ở Miền Nam dưới thời Mỹ-Diệm. Trong một phòng nhỏ chưa đầy 5m2, trần cao 2,65m, chỉ có 2 lỗ thông hơi, mỗi lỗ cao 20cm, rộng 5cm, thường xuyên có 20 người bị địch giam cầm. Có những đợt tù nhân đấu tranh mạnh mẽ chống ly khai Đảng, chống nói xấu cách mạng..., chúng nhốt vào đây một lúc 37 người cả nam lẫn nữ. Tù nhân lèn chặt vào nhau, thậm chí không đủ chỗ đứng hai chân. Mái bê tông hút nắng, xà lim như bị nung; bên trong chật ních người, mồ hôi toát ra, bốc hơi đọng lại trên trần. Thiếu không khí, tù nhân như bị luộc chín bằng chính mồ hôi của mình, nhiều người ngạt thở đến gần chết. Xà lim luôn ngập ngụa mùi hôi thối đến mức mỗi khi mở cửa nhà lao, cai ngục bị mửa ói máu, nên về sau, chúng phải đứng xa, dùng dây kéo cánh cửa. Có người coi ngục khi mở cửa, vì bị luồng khí nóng, nồng nặc mùi hôi thối phả ra không kịp tránh, bị phồng rợp khắp thân người, sinh ra lở loét, nên sau đó ông ta đã xin chuyển đi làm việc nơi khác. Bị giam cầm trong những điều kiện khắc nghiệt như vậy, nhiều tù nhân chịu không nổi, ói ra máu và chết ngay sau mấy tiếng đồng hồ bị giam cầm.
Chế độ ăn uống của tù nhân chính trị và các thủ đoạn tra tấn của địch tại nhà lao số 9 vô cùng man rợ không kém chuồng cọp ở Côn Đảo hay khám Chí Hoà. Khẩu phần mỗi bữa ăn chỉ là một vắt cơm nhỏ với mấy hạt muối sống.Trước những đòn tra tấn cực hình như thời trung cổ, nhiều chiến sĩ cách mạng đã anh dũng hy sinh trong nhà lao; một số người còn sống sót đều bị tàn phế và lâm trọng bệnh. Kẻ địch đã không từ một thủ đoạn tra tấn, giam cầm dã man nào để huỷ hoại thân thể biết bao tù nhân chính trị, nhưng chúng không thể nào khuất phục được ý chí kiên cường của họ.
Xà lim số 1, nhà lao số 9 được giữ lại như một chứng tích về tội ác ghê tởm của nguỵ quyền Sài Gòn “ trời không dung, đất không tha “. Nơi đây đã chứng kiến biết bao tấm gương đấu tranh kiên cường, bất khuất của những đảng viên Cộng sản và những người dân gắn bó máu thịt với cách mạng, thà chết, quyết không đầu hàng địch, không phản bội Đảng, không phản dân, hại nước.
Hiện nay, học sinh trường Tiểu học Trần Hưng Đạo đang nhận chăm sóc Nhà lao số 9; mỗi tuần mở cửa hai ngày vào thứ ba và thứ năm để nhân dân vào tham quan, tìm hiểu tội ác của quân thù và những gương đấu tranh kiên cường, bất khuất của cán bộ, đồng bào ta.
Di tích Nhà máy Đèn Quy Nhơn
Nhà máy Đèn Quy Nhơn là nơi ra đời Chi bộ Cộng sản đầu tiên của tỉnh Bình Định: Chi bộ Nhà máy Đèn Quy Nhơn. Đây là niềm vinh dự và tự hào đối với giai cấp công nhân và nhân dân Bình Định.
Nhà máy Đèn Quy Nhơn được khởi công xây dựng năm 1920 đến 1923 thì hoàn thành. Nhà máy nằm trên một vùng đất bằng phẳng, diện tích khoảng 600 m2, phía bắc giáp đường Gia Long (nay là Trần Hưng Đạo), phía đông là chợ lớn Quy Nhơn, phía tây-nam là giao điểm của hai đường Khải Định (nay là đường Lê Lợi) và Julles Ferry (nay là Phan Bội Châu). Nhà máy xây 4 tầng bê-tông cốt sắt.
Năm 1930, sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tiểu tổ Tân Việt tại nhà máy Đèn Quy Nhơn, tổ chức cách mạng đầu tiên của nhân dân Bình Định kịp thời bắt liên lạc với Phân cục Trung kỳ Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đổi là Xứ uỷ Trung kỳ). Khoảng đầu tháng 3.1930, đồng chí Phan Thái Ât, cán bộ Xứ uỷ Trung kỳ, đặc trách phong trào Quy Nhơn xúc tiến việc thành lập Chi bộ Nhà máy Đèn Quy Nhơn gồm một số đảng viên của Quy Nhơn và Phù Mỹ. Lúc đầu, Chi bộ gồm 5 đảng viên do đồng chí Lê Xuân Trử, công nhân kỹ thuật Nhà máy Đèn làm Bí thư. Cuối tháng 4.1930, đồng chí Lê Xuân Trử được Xứ uỷ điều về công tác tại Phân ban Điều hành của Xứ uỷ lập tại Đà Nẳng; Phân ban chỉ định đồng chí Nguyễn Hoàng (còn có tên là Lý, Thiều), công nhân Nhà máy Đèn làm Bí thư.
Địa bàn hoạt động và phát triển cơ sở cách mạng của Chi bộ được mở rộng ra các huyện An Nhơn, Bình Khê, Phù Mỹ. Chi bộ phát triển nhiều cơ sở cách mạng trong Nhà máy Đèn và một số xí nghiệp như Hãng Vận tải đường thuỷ, các ga ra Trần Sanh Thoại, Nguyễn Thọ Thuật, xưởng mộc Tạ Xuân Lang và một số trường học có phong trào học sinh bãi khoá như Collège de Quy Nhơn, Trường Tiểu học thị trấn Bình Định. Nhằm mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng, Chi bộ xây dựng các tổ chức Công hội Đỏ, Sinh hội Đỏ, Cứu tế Đỏ trong học sinh, viên chức công, tư sở và tiểu thương. Chi bộ phân công đảng viên thâm nhập vào các xóm lao động, khu phố, công trường đường sắt để tuyên truyền, giác ngộ cách mạng cho công nhân, lao động và dân nghèo thành thị.
Ngay sau khi ra đời, dù lực lượng cách mạng còn mỏng, nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương của cấp trên, Chi bộ đã trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng đầu tiên nhân ngày Quốc tế Lao động 1.5.1930. Các đảng viên và cơ sở cách mạng đã bí mật rải truyền đơn trên các đường Gia Long (nay là Trần Hưng Đạo), Jules Ferry (Phan Bội Châu), Odend d’ Hall (Lê Hồng Phong); treo cờ búa liềm trên cột điện tại ngã ba Công quán-Ga Quy Nhơn-Trường Collège, (nay là khu vực công viên Quang Trung). Cờ Đảng Cộng sản Việt Nam phấp phới tung bay trong thành phố nhiều giờ liền, khiến nhân dân vô cùng ngạc nhiên, phấn khích, trong khi bọn cầm quyền Pháp và Nam triều thì hết sức bất ngờ, lúng túng. Đến tháng 11.1930, Chi bộ Nhà máy Đèn lại lãnh đạo cuộc đấu tranh nhân kỷ niệm ngày Cách mạng tháng Mười Nga thành công (7.11.1919). Truyền đơn và biểu ngữ cổ động quần chúng đứng lên đấu tranh chống đế quốc Pháp, đòi các quyền dân tộc, dân chủ, dân sinh được rải khắp các đường phố Quy Nhơn và ở nhiều công sở như nhà máy Đèn, đinh Công sứ, toà Sứ... Một lần nữa, nhân dân Quy Nhơn lại được chiêm ngưỡng lá cờ Đảng phấp phới tung bay trên cột điện ngã ba Công quán-Ga xe lửa- Trường Collège trong nhiều giờ liền.
Thi hành mệnh lệnh của Khâm sứ Trung kỳ, bọn mật thám Pháp ở Quy Nhơn mở đợt khủng bố trắng, truy lùng, bắt bớ, tra tấn những người chúng nghi là Cộng sản. Trong đợt nầy, gần 30 cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng đã bị địch bắt. Đồng chí Nguyễn Hoàng, Bí thư Chi bộ Nhà máy Đèn, đồng thời cũng là Bí thư Đảng bộ Quy Nhơn lại bị địch bắt (tháng 11/1930; lần trước bị bắt vào tháng 5.1930). Đồng chí bị địch kết án khổ sai chung thân, đày lên Buôn Ma Thuột. Trước những đòn tra tấn cực hình của quân thù, người công nhân nhà máy Diêm Vinh (Nghệ An), hoạt động cách mạng trên quê hương anh hùng áo vải Nguyễn Huệ-Quang Trung, đã nêu gương bất khuất, kiên trung, thề hy sinh đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ Đảng và phong trào cách mạng địa phương vừa được nhen nhóm.
Hiện nay, tại cơ quan Sở Điện lực tỉnh Bình Định có Phòng truyền thống Đảng bộ ngành điện, trong đó có trưng bày tóm tắt quá trình ra đời Chi bộ Nhà máy Đèn Quy Nhơn và khắc hoạ tấm gương đấu tranh kiên cường, bất khuất và sự hy sinh anh dũng vì Đảng, vì dân, vì phong trào cách mạng Bình Định của các đồng chí Bí thư chi bộ là Lê Xuân Trử và Nguyễn Hoàng, cùng danh sách 5 đảng viên Cộng sản đầu tiên của ngành điện tỉnh nhà.
Di tích Trường Collège de Quy Nhơn
Trường Collège de Quy Nhơn thành lập năm 1921; tiền thân là Trường Tiểu học Pháp-Việt (École Franco-Annmite) thành lập năm 1920. Những năm đầu, Trường chỉ có một số lớp đệ nhất, đệ nhị cao đẳng tiểu học, mãi đến năm 1926, mới hoàn chỉnh cấp cao đẳng tiểu học (primaire supérieur), có đủ 10 lớp gồm 3 lớp sơ học yếu lược, 3 lớp tiểu học và 4 lớp đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ bậc cao đẳng tiểu học.
Collège de Quy Nhơn là một trong những trường trung học quốc lập ở nước ta sớm có phong trào cách mạng và có Chi bộ Cộng sản ra đời khoảng tháng 10.1930. Đây là niềm tự hào của các thế hệ thầy giáo và học sinh tỉnh Bình Định.
Cuối năm 1929, Tân Việt Cách mạng đảng phát triển được một số hội viên tại trường Collège de Quy Nhơn. Sau khi Chi bộ Nhà máy Đèn ra đời, khoảng cuối tháng 10.1930, Chi bộ Trường Collège được thành lập. Chi bộ có 3 đảng viên do Lê Xuân Bảo, học sinh đệ tam niên, nguyên học sinh Quốc học Huế được chuyển vào học tại Collège de Quy Nhơn, làm Bí thư. Các tổ chức quần chúng cách mạng công khai như Sinh hội Đỏ, nhóm Đọc sách báo... được thành lập
Sau khi ra đời, Chi bộ Collège de Quy Nhơn đã cùng Chi bộ Nhà máy Đèn lãnh đạo cuộc đấu tranh nhân kỷ niệm ngày Cách mạng tháng Mười Nga thành công (7.11). Truyền đơn, biểu ngữ cổ động nhân dân đứng lên đấu tranh chống đế quốc Pháp, đòi các quyền dân tộc, dân chủ, dân sinh được rải khắp các đường phố và ở nhiều công sở như nhà máy Đèn, đinh Công sứ, toà Sứ và trường Collège. Đặc biệt, cờ đỏ búa liềm được treo trên cột điện tại ngả ba Công quán-ga xe lửa Quy Nhơn-Trường Collège trong nhiều giờ. Chi bộ nhà trường còn bí mật cho ra đời và lưu hành báo Tia Sáng để tuyên truyền, vận động cách mạng giải phóng dân tộc.
Trong các đợt khủng bố trắng 1930-1931, nhiều đảng viên và học sinh hăng hái tham gia các phong trào đấu tranh cách mạng đã bị địch bắt, giam cầm, đánh đập, tra tấn dã man; nhiều người đã nêu cao tinh thần bất khuất, anh dũng hy sinh, trong đó có Bí thư Lê Văn Bảo nêu gương sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Tuy Chi bộ Trường Collège chỉ tồn tại gần hai năm, nhưng hình ảnh những chiến sĩ Cộng sản vẫn còn in đậm nét trong tâm khảm của giáo viên và học sinh yêu nước trong nhà trường, cổ vũ họ tiếp tục tham gia đấu tranh cách mạng trong những năm sau đó, nhất là từ năm 1936 trở về sau, khi Chính phủ Bình dân Pháp thực thi nhiều chính sách tiến bộ ở các nước thuộc địa Đông Dương.
Hiện nay, Di tích Trường Collège de Quy Nhơn còn lại chỉ là một phần nền của Trường Trung học cơ sở Lê Hồng Phong, năm phía tây đường Lê Hồng Phong. Đáng tiếc là cho đến nay, vẫn chưa có tấm bia tưởng niệm nào được xây tại đây để ghi lại sự kiện lịch sử quan trọng của ngành giáo dục Bình Định: Chi bộ Cộng sản Trường Collège de Quy Nhơn ra đời cuối năm 1930 là chi bộ Đảng đầu tiên trong các trường học tỉnh nhà.
Di tích Trường Lâm
Thôn Trường Lâm (xã Hoài Thanh, Hoài Nhơn) năm 1970 được tôn vinh là “Thôn Thành đồng”, năm 1973 được phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và năm 1985 được Đoàn cán bộ Quân sự cấp cao nước bạn Cu Ba về thăm.
Thời kháng chiến chống Mỹ, địch coi Trường Lâm là “Làng Cộng sản chìm”, là căn cứ của bộ đội Giải phóng. Chúng đã dội hàng trăm tấn bom đạn xuống cái làng quê nghèo, biến Trường Lâm lúc nào cũng chín đỏ vì khói lửa chiến tranh, hòng huỷ diệt mọi sự sống. Mặt khác, Mỹ-nguỵ thường xuyên càn quét đánh phá Trường Lâm khốc liệt. Nhưng quân dân Trường Lâm luôn giữ vững thế trận chiến tranh nhân dân và trận địa lòng dân, giáng trả địch những đòn bạt vía, kinh hồn.
Tháng 5.1964, Mỹ-nguỵ mở trận càn khốc liệt với 20 xe tăng M113 và một đại đội bảo an có phi pháo yểm trợ từ căn cứ Đệ Đức ào ạt tấn công Trường Lâm hòng huỷ diệt cái làng nhỏ nầy. Chúng đã bị quân dân Trường Lâm phối hợp với bộ đội địa phương huyện và một đơn vị nhỏ của Sư đoàn 3 quân Giải phóng chặn đánh quyết liệt, tiêu diệt toàn bộ đại đội bảo an nguỵ, bắn cháy 12 xe bọc thép. Bị thua đau, ngày hôm sau địch cho quân đến vây bắt 32 đồng bào Trường Lâm đem ra bãi biển Lâm Trúc tra khảo và bắn chết. Ngày 28.12.1967, hơn một tiểu đoàn quân Mỹ-nguy đổ bộ xuống Gò Dương, Gò Thành. Chúng bị du kích và bộ đội ta chăn đánh dữ dội; trận chiến diễn ra vô cùng ác liệt và kéo dài suốt một ngày. Khoảng 6 giờ chiều, địch dùng trực thăng chở những tên địch còn sông sót tháo chạy về căn cứ Đệ Đức của Trung đoàn 40 quân Cộng hoà nguỵ, bỏ lại xác chết 121 lính Mỹ, nguỵ.
Đi đôi với càn quét, đánh phá, dịch dùng trọng pháo từ biển và từ căn cứ Đệ Đức, dùng máy bay thường xuyên dội bom đạn xuống Trường Lâm hòng huỷ diệt mọi sự sống ở đây để cách mạng không còn nơi trú ẩn. Địch cho san ủi hai ngọn đồi Gò Tháp và Gò Nghiêm, cây cối trơ trụi giống như 2 nồi đất nung đỏ quánh (nay thuộc thôn Trường An 2; năm 1986, Trường Lâm được chia thành 4 thôn: Trường An 1, Trường An 2, Lâm Trúc 1 và Lâm Trúc 2). Địch xây dựng 2 đồi nầy thành 2 cứ điểm, có công sự kiên cố và hàng rào thép gai bao quanh vững chắc, nhằm quan sát và kiểm soát các hoạt động chuyển quân, tiếp tế của ta từ đông đường lên tây đường quốc lộ IA và ngược lại,
Chiến tranh kết thúc, thôn Trường Lâm có 159 liệt sĩ, 11 Mẹ Việt Nam anh hùng (hiện 3 mẹ còn sống), 210 thương binh, 153 người có công với cách mạng.
Đất Tường Lâm trước đây chỉ toàn sỏi cơm và đá ong, nay đã xanh mượt, một màu xanh hoà bình, tươi sáng. Hai ngọn đồi Gò Tháp, Gò Nghiêm xưa kia như hai cái nồi nung, cả Trường An 2, Trường An 1 và Lâm Trúc 2 đều đã phủ kín một thảm xanh của keo lai, đào ghép, mì và dừa trải dài.
Đặc biệt, Thôn Lâm Trúc 2 là Làng Văn hoá tiêu biểu được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen.
Di tích Trường Trung học Nguyễn Huệ
Trường Trung học Nguyễn Huệ trong kháng chiến chống Pháp kế thừa Trường Collège de Võ Tánh (trước năm học 1943-1944, gọi là Collège de Quy Nhơn), nhưng bản chất giáo dục, đào tạo của nó hoàn toàn khác trước. Đó là Trường Trung học cách mạng đầu tiên của tỉnh Bình Định trong chế độ dân chủ nhân dân.
Trường Collège de Quy Nhơn do thực dân Pháp mở vào năm 1921 gồm hai cấp: tiểu học (6 lớp) và cao đẳng tiểu học (4 lớp). Trường nằm tại đường Oden D’All, sau đổi là Võ Tánh (nay là đường Lê Hồng Phong).Từ khi mới ra đời đến năm học cuối cùng 1944-1945, Trường do người Pháp làm Hiệu trưởng.
Cách mạng tháng 8.1945 thành công, chính quyền dân chủ nhân dân được thành lập từ tỉnh đến huyện, xã, trực tiếp quản lý các hoạt động kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, y tế trên địa bàn. Trường Collège de Võ Tánh do Uỷ ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Bình Định trực tiếp quản lý, tiếp tục hoạt động; số giáo viên người Việt tiếp tục ở lại trường dạy học. Thầy Huỳnh Văn Gi, Tổng giám thị của Trường Collège được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng.
Hai năm học 1945-1946 và 1946-1947, Trường chuyển ra đóng tại làng An Lương, xã Mỹ Chánh, huyện Phù Mỹ (Trường từ QuyNhơn sơ tán về đây vào tháng 11.1945). Năm học 1945-1946, Trường có đủ 4 lớp từ đệ nhất đến đệ tứ, với 120 học sinh. Tháng 6.1945, Trường tổ chức kỳ thi cao đẳng tiểu học đầu tiên sau Cách mạng cho trên 20 học sinh đệ tứ của Trường và Trường tư thục Thị Nại của huyện Tuy Phước. Năm học 1946-1947, Trường vẫn chỉ có 4 lóp, nhưng số học sinh tăng lên 150 người. Cuối năm học, Trường tổ chức kỳ thi tốt nghiệp lần thứ hai cho 40 học sinh đệ tứ.
Cuối năm 1946, đầu năm 1947, tiếng súng toàn quốc kháng chiến rền vang khắp mọi miền đất nước. Nhận thấy địa bàn Trường đóng không bảo đảm an toàn, tháng 8.1947, Trường được lệnh chuyển về thôn Hoà Bình, xã Nhơn Phong, huyện An Nhơn, nằm trong một cánh đồng lúa mênh mông, bát ngát ở đông nam Phù cát, đông An Nhơn và bắc Tuy Phước, ít có khả năng bị địch hành quân càn quét đánh phá, lấn chiếm.
Năm học 1947-1948 tại Hoà Bình, Trường được đổi tên là Trung học Nguyễn Huệ gồm 2 lớp đệ nhất, 2 lớp đệ nhị, 1 lớp đệ tam, 1 lớp đệ tứ, tổng cộng 250 học sinh. Lớp học bằng tranh tre, vách đất. Văn phòng nhà trường lúc đầu đặt tại hiên đình, về sau chuyển vào trong đình. Lần đầu tiên, Trường tổ chức thi tuyển 100 học sinh vào đệ nhất niên. Tháng 6.1948, Trường lại tổ chức kỳ thi tốt nghiệp cao đẳng tiểu học lần thứ ba.
Do nhu cầu học tập của con em các huyện phía bắc tỉnh trở nên bức xúc, theo chủ trương của Lãnh đạo tỉnh, trường Nguyễn Huệ chia làm hai bộ phận: Bộ phận chính gồm các lớp đệ tam, đệ tứ, do thầy Huỳnh Văn Gi làm Hiệu trưởng chuyển ra thôn Vạn Thắng, xã Hoài Xuân, huyện Hoài Nhơn, cách thị trấn Bồng Sơn 2 km về phía đông, quen gọi là Nguyễn Huệ Bắc gồm 7 lớp, với 300 học sinh. Bộ phận còn lại vẫn ở thôn Hoà Bình, là Phân hiệu của Trường Trung học Nguyễn Huệ, được gọi là Nguyễn Huệ Nam có 3 lớp đệ nhất, 2 lớp đệ nhị, với 150 học sinh, do thầy Ngô Chanh phụ trách.
Năm học 1948-1949, theo sự chỉ đạo của đồng chí Phạm Văn Đồng, đặc phái viên của Trung ương ở Nam Trung Bộ, Trường Nguyễn Huệ Bắc mở thêm 1 lớp đệ nhất chuyên khoa Toán-Lý và 1 lớp đệ nhất chuyên khoa Vạn vật, sau đó, có thêm 1 lớp đệ nhị chuyên khoa Toán-Lý của trường Lê Khiết (Quảng Ngãi, bị địch thả bom cháy) chuyển vào; tổng số học sinh lên đến 150 người. Tháng 5/1949, thầy Đinh Thành Chương thôi giữ chức Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến-Hành chánh tỉnh về lại trường Nguyễn Huệ Bắc làm Giám học giúp thầy Huỳnh Văn Gi quản lý khối chuyên khoa đóng tại thôn Trung Lương, cách thị trấn Bồng Sơn vài cây số về phía tây. Như vậy, đến năm học nầy, Trường Trung học Nguyễn Huệ có đủ các lớp học của bậc trung học phổ thông, gồm cao đẳng tiểu học và ban tú tài.
Năm học 1949-1950, Trường Trung học Nguyễn Huệ, cả Nguyễn Huệ Bắc và Nguyễn Huệ Nam, có 18 lớp từ đệ nhất đến đệ nhị chuyên khoa với 750 học sinh. Khi năm học kết thúc, đa số học sinh chuyên khoa đều tình nguyện gia nhập quân đội, một số đi dạy học hay học sư phạm, số còn lại về địa phương tham gia công tác, nên Trường không tiếp tục mở các lớp chuyên khoa.
Năm học 1950-1951, ngành giáo dục nước ta thực hiện cải cách giáo dục lần thứ nhất, bỏ hệ thống giáo dục cũ, thay vào đó là hệ thống giáo dục phổ thông 9 năm gồm cấp I (tiểu học 4 lớp: 1, 2, 3 và 4); cấp II (cao đẳng tiểu học 3 lớp: 5, 6 và 7) và cấp III (tú tài 2 lớp: 8 và 9). Trong năm học chuyển tiếp nầy, học sinh mới tuyển thì vào học lớp 5; học sinh lớp đệ nhất chuyển lên học lớp 6; học sinh lớp đệ nhị, phải qua thi kiểm tra, em nào đủ điểm chuẩn thì lên lớp 7, không đủ điểm thì học lớp 6; học sinh đệ tam học lớp 7; học sinh đệ tứ thi tốt nghiệp để lấy bằng thành chung (Dipplome). Ba lớp chuyên khoa giải thể. Năm học nầy, Trường Nguyễn Huệ Bắc có 2 lớp 5; 3 lớp 6; 2 lớp 7 (có 1 lớp 7 sư phạm) và 2 lớp sư phạm đặc biệt: một lớp sư phạm cấp tốc dành cho học sinh đệ nhất chuyên khoa, chỉ học trong vòng 21 ngày về phương pháp sư phạm và một lớp sư phạm học một năm. Mùa khô 1950, giặc Pháp tăng cường đánh phá các vùng quanh thị trấn Bồng Sơn. Sau vụ địch thả bom ở Trung Lương, Trường Nguyễn Huệ Bắc chia làm hai bộ phận, một bộ phận vào lại Nhơn Phong, bộ phận kia sơ tán qua Lại Khánh nằm phía tây sông Lại, sau đó chuyển lên An Thường. Niên khoá 1951-1952, là năm học cuối cùng của trường Nguyễn Huệ Bắc.
Mặc dù bị máy bay địch thả bom, oanh tạc nhiều lần, Trường Nguyễn Huệ Nam vẫn tiếp tục dạy và học, đặc biệt, ngày càng phát triển mạnh mẽ. Năm học 1951-1952, Trường Nguyễn Huệ Nam được đổi tên là Trường Phổ thông cấp 2, 3 Bình Định do thầy Huỳnh Văn Gi làm Hiệu trưởng và thầy Ngô Chanh làm Hiệu phó. Năm học nầy, Trường có 50 học sinh lớp 8, trong đó có 15 em được xét tuyển lên học lớp 9 tại trường Lê Khiết, Quảng Ngãi. Trường Phổ thông cấp, 2, 3 Bình Định tồn tại cho đến ngày ta bàn giao tỉnh Bình Định cho đối phương quản lý (tháng 4.1955). Các năm học 1952, 1953, 1954, 1955, Trường thường xuyên mở lớp 8 dành cho học sinh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Năm học 1952-1953 có 54 học sinh lớp 8 (tăng hơn năm trước 4 em), năm học 1953-1954 có 61 và năm học cuối cùng, 1954-1955 có 2 lớp 8 với 100 học sinh. Trường Phổ thông cấp 2,3 Bình Định từ 1952 đến 1955, có năm học lên tới 20 lớp vừa phổ thông, vừa sư phạm, vừa công, vừa tư với gần 1.000 học sinh và 35 giáo viên.
Về tổ chức Đảng, năm học 1946-1947 tại An Lương, Trường Trung học Võ Tánh (sau đổi thành Nguyễn Huệ) có 3 đảng viên sinh hoạt ghép với Chi bộ xã sở tại là Mỹ Chánh. Năm học 1947-1948 tại Hoà Bình, Chi bộ Đảng của trường được thành lập có gần 10 đảng viên, do thầy Hoàng Quốc Cang dạy Anh văn làm Bí thư. Năm học 1948-1949, khi trường tách chia làm hai bộ phận thì Chi bộ Đảng tiếp tục hoạt động tại Nguyễn Huệ Bắc, còn Nguyễn Huệ Nam thì chưa đủ điều kiện thành lập Chi bộ riêng. Mãi đến tháng 10/1950, Nguyễn Huệ Nam mới thành lập Chi bộ Đảng gồm 8 đảng viên (có 4 giáo viên), do Thầy Nguyễn Quỳ làm Bí thư.
Mười năm ra đời, phát triển, Trường Trung học cách mạng đầu tiên của tỉnh Bình Định mang tên người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, là con chim đầu đàn, điểm sáng về dạy tốt, học tốt của ngành giáo dục tỉnh nhà. Đã có hàng nghìn giáo viên, học sinh của trường tập kết ra Miền Bắc tiếp tục công tác, học tập; có nhiều người rất thành đạt, trở thành các nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, các nhà khoa học nổi tiếng, những giáo sư, viện sĩ, tiến sĩ khoa học tên tuổi.
Để các thế hệ thầy trò hôm nay và mai sau nhớ mãi mái Trường Trung học Nguyễn Huệ thời kháng chiến chống Pháp đóng tại thôn Hoà Bình, xã Nhơn Phong, huyện An Nhơn, năm 2005, cựu học sinh Nguyễn Huệ, có cả những người đang lập nghiệp ở nước ngoài, đã tự nguyện quyên góp tiền xây dựng Bia Tưởng niệm ngay tại khuôn viên đình làng Nhơn Phong năm xưa. Mặt trước bia khắc mấy dòng chữ: Yêu nước, Đoàn kết, Hiếu học, Kính thầy, Mến bạn nói lên truyền thống tốt đẹp của Trường.
Di tích Vụ thảm sát Bình An
Bình An (nay là xã Tây Vinh, huyện Tây Sơn) nằm trên một địa bàn trọng yếu của tỉnh Bình Định. Phía đông bắc xã là sân bay Gò Quánh, phía chính bắc có núi Trà Rang là một cao điểm lợi hại. Phía đông có núi Thơm cao 83m, là căn cứ pháo binh của địch. Xã Bình An nằm lọt vào giữa một khu vực có nhiều đầu mối giao thông quan trọng: tỉnh lộ 636 chạy qua mặt bắc và đông nối thông với sân bay Gò Quánh, đường sắt Bắc-Nam và quốc lộ IA. Mặt phía nam xã, tiếp giáp sông Côn và xa hơn khoảng 4 km là con đường huyết mạch, quốc lộ 19 nối liền đồng bằng duyên hải Miền Trung với Tây nguyên. Chính vì vậy mà Mỹ-nguỵ đã dùng mọi biện pháp để thiết lập ách kìm kẹp trên địa bàn chiến lược nầy.
Thời chống Mỹ, cứu nước, phát huy truyền thống cách mạng quật khởi, đầu năm 1965, nhân dân Bình An đã nhất tề vùng lên giải phóng quê hương, lập chính quyền cách mạng, xây dựng làng chiến đấu. Khi quân viễn chinh Mỹ ào ạt nhảy vào tỉnh Bình Định, cuối năm 1965, địch mở những trận càn quét quy mô lớn, có quân Mỹ và Đại Hàn tham chiến, liên tục đánh phá, hòng giành lại quyền kiểm soát xã Bình An và các xã quanh vùng. Sát cánh cùng bộ đội chủ lực, nhân dân Bình An đã chiến đấu anh dũng, đập tan các cuộc hành quân càn quét, lấn chiếm của Mỹ-nguỵ, tiễêu diệt hàng trăm tên địch, có 150 lính Mỹ. Lúc bấy giờ, báo chí phương Tây mô tả: ”Ở gần làng An Thái, tiểu đoàn lính Mỹ đã phải sống những giờ phút hãi hùng nhất trong đời họ“...”Đây là những trận đánh hết sức đẫm máu và ác liệt đối với lính Mỹ..”.
Ngày 23.1.1966, quân Đại Hàn bất ngờ mở cuộc tấn công vào xã Bình An. Chúng bao vây bốn phía, quyết tiêu diệt toàn bộ lực lượng ta. Nhưng chúng đã bị quân dân ta giáng trả những đòn trừng trị đích đáng. Điên cuồng và lồng lộn, chúng quay sang đốt phá nhà cửa, thóc gạo và giết hại dân lành. Hơn 100 thường dân, phần lớn là người già, phụ nữ và trẻ em đã bị tàn sát.
Với khẩu hiệu “đốt sạch, phá sạch, giết sạch”, ngày 7.2.1966, quân Nam Hàn lại tiếp tục mở một chiến dịch hành quân khủng bố tàn bạo chưa từng có. Từ mờ sáng, pháo binh địch cấp tập nã đạn vào Bình An. Tiếng pháo vừa dứt, lính Đại Hàn từ nhiều hướng ập tới. Chúng dùng lựu đạn cay thả xuống các hầm trú ẩn ở ven làng, bắt nhân dân phải lên khỏi hầm để chúng thả sức tàn sát. Ngay trong ngày đầu càn quét, 7/2, chúng đã giết chết 58 người dân vô tội; riêng tại khu vườn nhà ông Phạm Chương (thôn An Vinh), chúng xả súng bắn chết một lúc 48 người. Cả hai vợ chồng ông Chương đều bị giết.
Những ngày tiếp theo, những cuộc thảm sát man rợ ngày càng nhiều. Đẫm máu nhất là ngày 12.2.1966, từ 10 giờ sáng, bọn Đại Hàn bắt đầu cuộc tàn sát tại thôn Bình Đức. Chúng xã súng bắn chết bất cứ ai chúng gặp. Tại nhà ông Trần Ngô, khu vườn nhà ông Lê Phúc, khu nghĩa địa, chúng sát hại 26 người. Đặc biệt, ở khu nghĩa địa, chúng đã dã man trói người vào vào các tấm bia mộ rồi để phơi nắng cho đến chết. Đến 1 giờ trưa, địch kéo sang chợ Sông Cạn (thôn Nhơn Thuận), bắt 33 người dân dồn vào bãi chợ rồi xả súng trung liên bắn chết. Xác người chồng chất lên nhau. Chưa hả, đến 5 giờ chiều, bọn khát máu lại bắn chết một lúc 40 người tại Lỗ Sỏi. Chỉ trong ngày 12.2, quân Đại Hàn đã thảm sát 109 đồng bào ta.
Cuối trận càn, từ 15 đến 26.2, những cuộc tàn sát rùng rợn nhất lại xảy ra với gần 600 người. Ngày 23.2, địch bắt 90 người dân, dồn vào khu vườn nhà ông Trương Niên (thôn An Vinh), dùng trung liên bắn chết sạch, không trừ một ai; có những gia đình bị chúng giết hết cả nhà. Trước khi kết thúc trận càn kéo dài 3 tuần lễ, ngày 26.2, địch bắt 380 đồng bào ta từ các nơi dồn về Gò Dài (thôn An Vinh) để giết chết không sót một ai. Với phụ nữ, những con dã thú Đại Hàn, sau khi hãm hiếp, đã dùng lưỡi lê đâm vào cửa mình; với trẻ em, chúng chất rơm, đốt lửa thiêu sống. Di tích còn lại về vụ thảm sát Gò Dài là một ngôi mộ tập thể dài 33m, rộng 1,5m, chôn 380 nạn nhân.
Chiến dịch thảm sát của địch đã để lại cho nhân dân Bình An những hậu quả vô cùng thê thảm. Trên 1.000 dân lành, phần lớn là người già, phụ nữ, trẻ em bị giết hại, 1.535 trong tổng số 1.592 ngôi nhà bị tàn phá, hơn 83.500 tấn lúa gạo bị thiêu huỷ và cướp đi. Sự sống ở Bình An bị huỷ diệt đến nỗi dân làng không thể tiếp tục ở lại sinh sống mà phải đi phiêu bạt khắp nơi, mãi đến hơn hai năm sau mới có người trở về quê cũ.
Di tích Vụ thảm sát Bình An là một chứng tích lịch sử về tội ác địch. Chứng tích nhắc nhở các thế hệ hiện tại và mai sau mãi mãi ghi nhớ tội ác man rợ của quân xâm lược; ghi lòng tạc dạ sự hy sinh vô cùng to lớn của đồng bào ta vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập dân tộc; nhắc nhở chúng ta phải ra sức dựng xây quê hương, đất nước ngày càng giàu mạnh, đồng thời không ngừng nâng cao cảnh giác với những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách thực hiện diễn biến hoà bình, chống phá, lật đổ Đảng và Nhà nước ta.
Di tích Vụ thảm sát cầu Bình Trị-đập Cây Kê
Những năm thực thi quốc sấch “tố Cộng, diệt Cộng”, nguỵ quyền Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ đã gây cho đồng bào ta nhiều tội ác “trời không dung, đất không tha “. Cầu Bình Trị-đập Cây Kê huyện Phù Mỹ, là nơi đã diễn ra nhiều vụ hành quyết rùng rợn mà mỗi khi nhắc đến, ai cũng cảm thấy phẫn uất, căm hờn.
Thực hiện khẩu hiệu “đào tận gốc, trốc tận rễ Cộng sản“ do Diệm đặt ra, bọn nguỵ quân, nguỵ quyền huyện Phù Mỹ không từ một thủ đoạn tra tấn, sát hại man rợ nào. Tại quận lỵ, một nhà lao lớn rộng gần 5.000 m2 đã giam cầm, đánh đập, khảo tra đến chết hàng trăm cán bộ cách mạng và đồng bào yêu nước. Ngoài nhà lao chi khu nói trên, tại xóm Lò Nồi, cách quận lỵ không xa, còn có một nhà lao khác, thường xuyên giam giữ 40 người dân, chúng cho là những phần tử nguy hiểm. Không thể khuất phục được ý chí cách mạng kiên trung của những người yêu nước, địch đem họ ra cầu Bình Trị và đập Cây Kê để thủ tiêu theo phương châm “thà giết lầm, còn hơn bỏ sót”.
Cầu Bình Trị và đập Cây Kê đều nằm trên địa phận xã Mỹ Quang, chỉ cách thị trấn Phù Mỹ khoảng 500m về phía đông. Là cây cầu nằm trên tỉnh lộ, nối quận lỵ với các xã phía đông, nhưng dưới thời Mỹ-nguỵ, hễ đến chạng vạng tối là nơi đây không một bóng người qua lại. Đây là lúc bọn ác ôn đưa tù nhân các nhà lao đến đây để hành quyết bằng những hình thức vô cùng man rợ như chặt đầu, mổ bụng, moi gan, dùng cuốc đập vỡ sọ, trói tay, bịt măt thả trôi sông...Trong suốt 21 năm tồn tại của nguỵ quyền huyện Phù Mỹ, dòng sông Bình Trị đã nhuốm máu đào của hàng trăm chiến sĩ cách mạng và cả những người dân lương thiện, trong đó có nhiều người già cả, nhiều phụ nữ và trẻ em.
Di tích Vụ thảm sát cầu Bình Trị-đập Cây Kê ghi lại những tội ác dã man của Mỹ-nguỵ, đồng thời cũng là nơi mãi mãi khắc ghi những tấm gương hy sinh anh dũng của đồng bào, đồng chí ta một lòng, một dạ trung thành với Đảng, với cách mạng.
Di tích Vụ thảm sát Ngả ba Đình
Những năm từ 1955 đến cuối năm 1959, với quốc sách “ tố Cộng, diệt Cộng “ và luật phát xít 10/59, Mỹ Diệm đàn áp đẫm máu phong trào cách mạng Miền Nam nói chung và tỉnh Bình Định nói riêng, nhưng chúng không thể khuất phục được tinh thần đấu tranh của nhân dân ta.
Sau cuộc khởi nghĩa Tờ lok-Tờ lék ở Vĩnh Thạnh giành thắng lợi, nhân dân Bình Định bắt đầu sử dụng tấn công vũ trang song song với đấu tranh chính trị gây cho địch nhiều tổn thất. Các cơ sở cách mạng phối hợp cùng tự vệ mật xã Hoài Sơn, huyện Hoài Nhơn đã bí mật tiêu diệt 5 tên ấp trưởng, ấp phó ác ôn, trong đó có tên Lê Công là anh ruột tên Xã trưởng Lê Văn Luận khét tiếng tàn ác. Một ngày sau khi tên Lê Công đền tội, tên Luận cho bọn dân vệ lùng sục bắt 12 chiến sĩ cách mạng đem ra Ngả ba Đình đánh đập, tra tấn dã man rồi trói chặt vào nhau xã súng bắn chết tại chỗ. Có 2 chiến sĩ cách mạng là Nguyễn Văn Trình và Nguyễn Ánh đã thoát chết trong vụ thảm sát man rợ nầy.
Tại Ngả ba Đình, nhân dân xã Hoài Sơn đã xây biểu tượng “Ngọn lửa căm hờn” do Nguyễn Hồng Hải thiết kế và thực hiện. Bố cục là hình tượng ngọn lửa bốc cao lên thành cột lửa trên nền mặt trống đồng cách điệu, khắc hoạ những hoa văn chim lạc nhắc nhở chúng ta luôn nhớ về cội nguồn dân tộc. Các mảng phù điêu khắc trên trống đồng và hình ảnh ngọn lửa đã tố cáo tội ác quân thù, ca ngợi sự hy sinh anh dũng và tinh thần quật khởi của những người đã ngã xuống làm nên chiến thắng hôm nay.
Di tích Chămpa
Trên địa bàn tỉnh Bình Định hiện còn nhiều tháp, nhiều di tích, phế tích Chămpa có giá trị về lịch sử, văn hoá và kiến trúc.
Di tích Gốm gò Cây Ké
Cách gò Hời chừng 500m, thuộc địa phận thôn Bình An Đông, có dấu tích một trung tâm sản xuất gốm cổ mang tên gò Cây Ké. Đây là một gò đất cao, rộng khoảng 300m, nằm ở phía tây thôn Bình An Đông, sát Bàu Già, dấu vết còn sót lại của một nhánh sông Côn bị lấp. Trên gò hiện còn 3 lò nung gốm hình chữ nhật, xây cạnh nhau theo hướng đông-tây. Tường lò đắp bằng đất được nện kỹ, có màu đỏ sẫm như gạch và rất cứng. Quanh khu lò, sản phẩm phế thải chất dày tới 0,6m.
Sản phẩm gốm gò Cây Ké được sản xuất với kỹ thuật khá hoàn thiện, có độ nung cao, men dày, bóng và bám chắc. Ngoài những sản phẩm giống như ở gò Hời, còn thấy có các đồ sứ màu men vâng chanh, nâu nhạt hay màu đen. Một số hiện vật được trang trí sóng nước, hoa lá cách điệu phóng khoáng, bằng cách khắc chìm lên xương gốm rồi phủ men lên trên.
Căn cứ vào kỹ thuật sản xuất và kiểu dáng, thì trung tâm gốm gò Cây Ké xuất hiện muộn hơn gò Hời, vào khoảng thế kỷ XIV-XV.
Di tích Gốm Gò Hời
Tại phía tây thôn Bình An Đông, xã Tây Vinh, huyện Tây Sơn có một khu gò cao, rộng chừng 200 m2, mang tên Gò Hời, nằm ngay bờ bắc sông Côn. Đây là di tích Gốm Gò Hời
Kết quả khảo sát cho thấy lớp gốm phế thải dày từ 0,4m đến 0,8m. Đặc biệt, ở phía đông Gò hiện còn dấu tích một lò nung khá nguyên vẹn, tường lò nhô lên khỏi mặt đất 0,6m. Lò có hình chữ nhật nằm theo hướng đông-tây, dài 8m, rộng 4m, có cấu trúc giống như lò gốm đã phát hiện được ở Gò Sành. Tường lò được xây bằng bao thơi, đáy quay vào phía trong, miệng nhồi đất sét quay ra phía ngoài; đất sét nhồi trong bao thơi đỏ cứng như gạch.
Sản phẩm gốm Gò Hời cũng khá phong phú về kiểu dáng và kích cỡ, gồm các loại bình chậu, bát, đĩa, lọ hoa, cốc... Xương gốm dày, được nung ở nhiệt độ cao nên khá cứng. Màu men thường là ghi xám, dày và bóng; cũng có những hiện vật được phủ men màu vàng nhạt hay nâu đen, dày và bóng. Các sản phẩm gốm Gò Hời hầu như không có hoa văn trang trí.
Các nhà khảo cổ cho rằng gốm Gò Hời xuất hiện cùng thời với gốm Lai Nghi, vào khoảng cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV.
Di tích Gốm Gò Sành
Gò Sành hay xóm Sành là tên một xóm nhỏ thuộc thôn Phụ Quang, xã Nhơn Hoà, huyện An Nhơn.
Qua 4 cuộc khai quật khảo cổ học tại Gò Sành vào các năm 1991,1992,1993 và 1994 do Viện Khảo cổ học Hà Nội và Bảo tàng tổng hợp tỉnh Bình Định thực hiện (năm 1994 có các học giả Nhật tham gia), các nhà nghiên cứu khẳng định tại Gò Sành có 3 lò gốm.
Lò số 1 có tên là Lò Cây Quang. Hiện lò còn khá nguyên vẹn từ tường lò, nền lò và sản phẩm nung cuối cùng. Lò có dạng hình ống có tổng chiều dài 14m. Buồng lò hình chữ nhật mở rộng dần về phía cuối, khoảng 1,6m; chiều rộng ở phía trước khoảng 2,8m; phía sau và chiều dài thềm là 10m. Ở một bên tường lò có chừa một cửa để xếp và dỡ sản phẩm. Một bậc tường thẳng cao 0,5m tách riêng phần buồng lò và bầu đốt, chỗ tường phía cuối lò xây bằng những bao nung để thoát lửa và khói, được xếp thành hàng ngang với 6 lỗ trống. Hai lớp nền thuộc hai thời kỳ khác nhau được phân biệt rõ ở buồng lò, với lớp nền dày 0,3m. Tường lò được xây bằng bao nung, nhồi đất sét kín ở bên trong. Đây là kiểu xây lò rất mới, trước đây chưa thấy có ở nước ta.
Lò số 2 có tên là lò Cây Mận (Cây Roi), nằm ở phía nam Gò Sành. Giống như lò Cây Quang, tường lò cũng được xây bằng những bao nung lèn đất và cách sắp xếp cột chia lửa trong bầu đốt cũng tương tự như vậy.
Lò thứ 3 nằm dưới lò số 2, là lò có niên đại xây dựng sớm nhất. Tường lò số 3 không làm bằng vật liệu bao nung mà hoàn toàn bằng đất sét. Lò rộng 1,2m chỗ gần bầu đốt; 1,7m ở phía sau. Chiều dài thân lò là 5,3m. Ở cuối tường, mở 4 lỗ trống thoát khói. Ống khói nhỏ, góc thoát lên trên, lối dẫn lửa vào nằm ở cùng độ sâu với buồng lò cho phép lửa từ bầu đốt đi lên. Đây là cách đốt lửa độc đáo của người Chăm mà trước đây chưa thấy một tư liệu nào nói đến.
Bảo tàng Tổng hợp tỉnh đã thu thập và lưu giữ một sưu tập khá phong phú các sản phẩm gốm Gò Sành. Sản phẩm sành sứ chủ yếu được sản xuất tại đây bao gồm bát, đĩa, chậu tráng men Celadon, bình, vại tráng men màu nâu sắt và bát đĩa, chậu trang trí nâu sắt dưới men. Ngoài ra, còn có ngói tráng men, ngói không men và vật trang trí kiến trúc. Những chiếc bát, đĩa tráng men Celadon và bình hũ tráng men nâu có đặc điểm tương tự các lò gốm Phúc Kiến (Trung Quốc). Phần lớn sản phẩm gốm Gò Sành, xương có màu xám mực, đỏ nhạt; kỹ thuật giai đoạn sớm dùng con kê, men tráng gần sát đáy, giai đoạn muộn dùng kỹ thuật ve lòng. Men gốm dày, đều và màu men không ổn định đã tạo ra một sắc thái riêng cho gốm Gò Sành.
Các nhà khảo cổ khẳng định, gốm Gò Sành làm ra không chỉ để phục vụ tiêu dùng tại chỗ mà còn tham gia vào thị trường xuất khẩu sang các nước Đông Nam Á và xa hơn là Ai Cập. Trong số những hiện vật tìm thấy trên con tàu đắm ở quần đảo Calatagan ngoài khơi đảo Pantanan thuộc Philippine có tới hàng ngàn sản phẩm gốm Gò Sành.
Các chuyên gia khảo cổ đoán định rằng gốm Gò Sành có khả năng xuất hiện vào khoảng thế kỷ XV-XVI.
Di tích Gốm Lai Nghi
Các nhà khảo cổ đã phát hiện một trung tâm sản xuất gốm Chămpa lớn tại xóm Lai Nghi xã Nhơn Mỹ, huyện An Nhơn. Khu di tích nằm dọc theo bờ bắc sông Côn, dài trên 1.000m, rộng trên 200m. Tại đây, thấy có dấu vết 3 lò nung với vô số mảnh gốm của các loại sản phẩm từ đồ gốm gia dụng như chậu, thạp, nồi, bát, đĩa... đến vật liệu xây dựng như ngói, các điểm góc trang trí... đã được sử dụng trong các công trình kiến trúc Chămpa.
Phần lớn đồ gốm ở trung tâm nầy được sản xuất bằng kỹ thuật khá cao, xương gốm cứng, men màu dày, bóng với nhiều sắc độ khác nhau, được trang trí đẹp bằng kỹ thuật tạo hoa văn phong phú. Có sản phẩm hoa văn vẽ chìm rồi phủ men, có loại hoa văn đắp nổi. Cũng có không ít đồ gốm hoa văn được tạo bằng khuôn. Đề tài trang trí cũng rất đa dạng, có hình rồng, mặt chim, thú, mặt Kala. Đặc biệt, những trang trí cánh sen kết dài, hoa lá uốn lượn tự do trông rất sống động, đẹp mắt. Lại còn có loại hoa văn sóng nước biến ảo, nhịp nhàng.
Có khả năng Lai Nghi là trung tâm gốm lớn và quan trọng nhất ở Đại Châu thời Vijaya.
Di tích Gốm Trường Cửu
Tại Trường Cửu hiện còn một dải đất khá cao, chạy dọc theo bờ sông Côn, dài chừng 700-800m, rộng khoảng 300m, trên đó la liệt những mảnh gốm sứ, sản phẩm phế thải, bao thơi, có nơi chồng chất thành gò. Đó là chứng tích một trung tâm sản xuất gốm cổ, Gốm Trường Cửu.
Các nhà khảo cổ đã phát hiện được dấu vết của một lò nung gốm có bình đồ hình chữ nhật nằm theo hướng đông-tây, tường xây bằng đất sét mịn được đầm lèn chắc. Phần tường lò còn lại có màu đỏ sẫm và rất cứng do tác động của nhiệt độ cao khi nung gốm. Phần ngoài tường, mảnh bao thơi và sản phẩm phế thải ken dày.
Căn cứ cào những di vật còn lại, các nhà nghiên cứu cho rằng các sản phẩm Gốm Trường Cửu tương đối phong phú như bình, chậu, bát, đĩa, cốc... với nhiều kiểu dáng và kích cỡ khác nhau. Phần lớn các sản phẩm đều được tráng men dày và bóng. Màu sắc men thường thấy là xám nhạt, nhưng lác đác cũng có vàng, nâu. Đa số các sản phẩm đều không có hoa văn trang trí, trừ một số có kích cỡ lớn, được vẽ chìm trên xương gốm rồi phủ men màu lên, nhưng hoa văn trang trí cũng chỉ có hoa lá với cách thể hiện đơn giản.
Dựa vào kỹ thuật sản xuất và phân tích loại hình, các chuyên gia cho rằng Gốm Trường Cửu xuất hiện vào giai đoạn muộn của thời kỳ Vijaya, có niên đại vào khoảng thế kỷ XIV-XV.
Di tích Thành Cha
( Xem vần T, mục Thành cổ, tiểu mục Thành Cha)
Di tích Thành Đồ Bàn
( Xem vần T, mục Thành cổ, tiểu mục Thành Đồ Bàn)
Di tích Thành Thị Nại
(Xem vần T, mục Thành cổ, tiểu mục Thành Thị Nại)
Di tích Tháp An Hoà
Tại Nhơn Khánh, thị xã An Nhơn hiện còn di tích 3 toà tháp Chàm: tháp Khánh Lễ, tháp Thông Hoà và tháp An Hoà. Di tích Tháp An Hoà nằm trên địa phận thôn An Hoà, dân địa phương quen gọi là gò Tháp Gãy. Đống phế tích còn lại cao tới 4,5m, trải rộng trên diện tích hơn 200m2. Chắc hẳn, khi còn nguyên vẹn, đây là một toà tháp có quy mô lớn.
Di tích Tháp Chà Cây
Tháp Chà Cây nằm trên địa phận thôn Lục Lễ, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước nay chỉ còn là một phế tích. Tháp đổ tạo thành một gò gạch lớn lẫn với đá ong. Tại đây thấy có nhiều điểm trang trí góc đẹp, và đặc biệt là có nhiều mảnh tượng vỡ. Toàn bộ phế tích hiện đã bị cây cối mọc um tùm gần như phủ kín.
Di tích Tháp Chà Rây
Tháp Chà Rây, còn gọi là tháp Nóc nằm trên một khu đồi cao thuộc thôn Trảng Long, Nhơn Lộc, thị xã An Nhơn. Phế tích để lại là ba gò gạch lớn vốn là vật liệu xây dựng ba ngôi tháp lớn đã bị sập đổ. Tháp chính được xây dựng trên đỉnh đồi, móng rộng trên 10m. Hai tháp còn lại đứng cân đối hai bên trên nền sân, thấp hơn nền tháp chính khoảng 3-4m. Trong đống phế tích có không ít mảnh tượng, phù điêu và các điểm trang trí góc.
Di tích Tháp Khánh Lễ
Tại Nhơn Khánh, thị xã An Nhơn có phế tích của ba toà tháp Chămpa, quy mô hơn cả là Tháp Khánh Lễ nằm tại thôn Khánh Lễ.
Dù vật liệu xây dựng và trang trí tháp đã sập đổ thành một đống gạch đá hỗn độn, vẫn dễ dàng nhận ra đây là một toà tháp lớn, có nền móng mỗi cạnh rộng trên 10m. Trong đống phế tích vỡ vụn, có khá nhiều các điểm góc trang trí bằng đất nung, các phù điêu quái vật, một dạng Kala (thần Thời gian); có hai trụ cửa bằng đá giống hệt nhau còn nguyên vẹn. Hai trụ cột nầy là những tác phẩm mỹ thuật được tạo dáng cân đối với những hoa văn trang trí sống động. Trụ có mặt cắt hình vuông với 4 tầng, nhỏ dần về phía trên. Tầng đáy có chiều rộng 0,48m, cao 0,28m; bốn mặt đều được khắc trang trí hình hoa cúc 4 cánh nở xoè cân xứng, có dải kết xung quanh. Tầng thứ hai nhỏ hơn tầng đáy, để trơn như một khoảng trống chuyển tiếp. Tầng ba khắc hoạ hoa văn hình lá đề, có hoa văn xoắn hướng lên diềm. Các lá đề kết thành dải, ở góc trụm, mỗi mặt khắc tạc một nửa hình lá đề liên kết với nhau thành một dải trang trí hoàn chỉnh.
Đặc biệt, trong số các di vật còn sót lại, có một pho tượng sư tử khá độc đáo. Khác hẳn với những tượng sư tử tìm thấy trong thành Đồ Bàn, tượng ở Tháp Khánh Lễ được tạo dáng như một nhân vật huyền thoại; đầu sư tử, mình người. Tượng cao 1m trong tư thế đứng thẳng. Đầu phủ bờm ba lớp tết xoắn, tai to vểnh ngược, mắt lồi, mũi to, miệng rộng, răn nhe trông rất dữ tợn. Phần thân được tạo dáng chắc khoẻ, vạm vỡ; hai tay giơ lên như đang nâng một vật nặng; hai chân thấp lùn, mập mạp. Tượng được trang trí khá đẹp với vòng cổ xoắn tròn; bắp tay, cổ tay và cổ chân đều đeo vòng hạt kết chuỗi. Trang phục quấn quanh phần dưới tượng là sampot, một loại trang phục đàn ông, thân ngắn, dải buộc buông dài tới chân. Sampot trang trí hình hoa văn cánh sen, được điểm xuyết những bông hoa tròn. (Pho tượng nầy và hai trụ đá hiện đang được bảo quản tại Bảo tàng tổng hợp tỉnh Bình Định).
Di tích Tháp Khánh Vân
Tại thôn Văn Quang, xã Phước Quang, huyện Tuy Phước hiện còn phế tích Tháp Khánh Vân. Tháp được xây dựng trên một gò cao. Hiện trạng chỉ còn là một đống phế tích vật liệu xây dựng; có nhiều bức phù điêu, tượng đẹp được nhân dân tìm thấy và đã đem cúng cho chùa làng.
Di tích Tháp Long Triều
Trên một gò đất rộng chừng 200m tại xóm Nam, thôn Xuân Mỹ, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước có phế tích Tháp Long Triều. Đó là một đống gạch lẫn lộn với những phù điêu trang trí, những điểm góc trang trí bằng gốm nung già được tạo dáng đẹp với hoa văn lá lật uốn lượn.
Di tích Tháp Lộc Thuận
Tại thôn Lộc Thuận, xã Nhơn Hạnh, thị xã An Nhơn hiện còn một đống vật liệu xây dựng bị bể nát, đó là phế tích Tháp Lộc Thuận.
Di tích Tháp Mẫm
Tại Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn có gò Tháp Mẫm là dấu vết của một tháp Chàm xưa. Qua khảo cứu tỉ mỉ những hiện vật đã khai quật ở gò Tháp Mẫm vào năm 1934, các chuyên gia khảo cổ người Pháp khẳng định rằng nghệ thuật kiến trúc, nhất là tạc tượng của tháp Mẫm mang một phong cách riêng “ Phong cách Tháp Mẫm “, tiêu biểu cho giai đoạn phát triển mạnh mẽ cuối cùng của nghệ thuật Chămpa.
Di tích Tháp Miếu và Tam Tháp
Tại Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, ngoài di tích thành Chà Bàn, tháp Cánh Tiên, phế tích Tháp Mẫm, còn dấu vết của hai khu tháp Chàm khác, một ở xóm Miếu, một ở gò Tam Tháp, trên đồi cao phía nam thôn Nhạn Tháp. Tại gò Tam Tháp hiện còn một đống gạch, đá hỗn độn lẫn với những mảnh trang trí bằng đất nung.
Di tích Tháp Tân Kiều
Phía đông thôn Tân Kiều, Nhơn Mỹ, thị xã An Nhơn có phế tích Tháp Tân Kiều, dân gian thường gọi là Tháp Lở. Tháp vốn được xây dựng trên một khu đất rộng, cao hơn các vùng xung quanh. Căn cứ vào nền móng và vật liệu xây dựng còn lại, có thể hình dung Tháp Tân Kiều vốn là một quần thể kiến trúc tương đối lớn. Ngoài tháp chính còn có những công trình kiến trúc phụ và cả một hệ thống tường bao bọc xung quanh. Trong đống gạch đá trên nền tháp, vẫn có thể nhận ra một bệ thờ trong lòng tháp.
Di tích Tháp Thông Hoà
Phế tích Tháp Thông Hoà ở Nhơn Khánh, thị xã An Nhơn, nằm tại thôn Thông Hoà trên một gò đất cao, nơi có truyền thuyết dân gian là “hầm đá, vòm mồ” của người Chăm. Trong đống gạch đổ nát, còn tìm thấy tượng người, tượng tiên nữ, tượng đầu khỉ cùng nhiều diềm trang trí góc bằng đất nung.
Di tích Thập Tháp
Yểm hậu thành Đồ Bàn xưa có cả một quần thể 10 ngọn tháp, nhưng theo sử cũ chép lại thì 10 ngọn tháp nầy đã bị phá dỡ vào nửa đầu thế kỷ XVII. Chứng tích của quần thể kiến trúc kỳ vĩ ấy, nay chỉ còn lại trong địa danh gò Thập Tháp, một gò đất rộng hình mu rùa, nằm trên địa phận phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn.
Di tích Tượng đá
Trong khuôn viên thành Đồ Bàn xưa, trong lòng đất vẫn còn ẩn giấu nhiìều di vật, chứng tích một thời thời vàng son của vương quốc Chămpa. Năm 1992, nhân dân địa phương đã tình cờ đào được ở một khu đất nằm phía đông bắc gò Tháp 2 tượng sư tử và 1 tượng voi bằng đá, mỗi tượng cao khoảng 1,1m, dài chừng 1,2m. Cả 3 tượng nầy hiện đang được bảo quản tại Bảo tàng tổng hợp tỉnh.
Còn ba tượng voi đã được đưa về đặt quanh lăng Võ Tánh, có cách tạo dáng và kích thước tương tự như hai tượng sư tử đã tìm thấy tại gò tháp Cánh Tiên cũng được xếp vào “Phong cách Tháp Mẫm“.
Đặc biệt hơn cả là đôi tượng voi, một đực, một cái ở hai bên cửa thành Nội trên địa phận xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn. Hai tượng voi nầy được tả thực một cách sống động đến kỳ lạ. Voi cái đặt bên phải, cao 1,7m, dài 2,2m, thân rộng 0,7m, trong tư thế đầu nhô cao về phía trước, vòi cụp và phía chân trông rất tinh nghịch. Đầu voi đội vương miện xung quanh viền cánh hoa xếp sít nhau. Trước cổ đeo một cái yếm rộng có hai vòng lục lạc đính trên những băng trang trí hình quả trám. Thân voi tròn lẳn, khoẻ khoắn. Tượng voi toát lên vẻ đẹp vừa hiện thực, vừa mang dáng dấp quyền quý, vương giả. So với voi cái, voi đực lớn hơn một chút: cao 2m, dài 2,2m, thân rộng tới 1m. Voi được tạc theo tư thế động, một chân trước hơi co lên như sắp bước đi. Vòi uốn cong như đang muốn nhổ một vật gì; hai tai vểnh ra, dáng như đang chăm chú nghe ngóng. Ngoài một dải băng xếp lớp đơn giản quấn quanh cổ, mình voi để trần, hầu như không có hoa văn trang trí, để lộ ra toàn bộ khối hình chắc nịch, khoẻ khoắn của một cơ thể sung mãn sinh lực. Các đường nét của tượng được diễn tả sống động giống với voi thực.
Có thể nói, hai con voi trong thành Đồ Bàn là hai tượng voi lớn nhất và là những tác phẩm nghệ thuật tả thực sinh động nhất của nghệ thuật Chămpa. Theo các chuyên gia đoán định, thì hai tượng voi nầy có niên đại vào khoảng thế kỷ XII.
Di tích Khởi nghĩa Tây Sơn
Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn là phong trào nông dân rộng lớn nhất, mạnh mẽ nhất, vang dội nhất của nước ta từ trước cuối thế kỷ XVIII. Hiện trên địa bàn tỉnh Bình Định đang còn nhiều Di tích Khởi nghĩa Tây Sơn.
Di tích Ấp Tây Sơn
Ấp Tây Sơn được lập vào thời gian chúa Nguyễn Phúc Tần bắt dân binh Hưng Nguyên, Nghệ An, trong đó có tổ 4 đời họ Hồ của anh em nhà Tây Sơn, vào Đàng Trong, đưa lên vùng núi khai hoang, lập ấp Tây Sơn Nhất, vào giữa thế kỷ XVII. Theo Địa bạ trấn Bình Định năm 1818, thì Tây Sơn Nhất khách hộ ấp (thôn Tây Sơn) thuộc tổng Thời Hoà, huyện Tuy Viễn, “đông bắc giáp núi, tây giáp sông, nam và bắc đều giáp núi..”. Theo nhà nghiên cứu Quách Tấn, ấp Tây Sơn chia làm 3 vùng: Tây Sơn Thượng gồm trọn vùng An Khê núi non trùng điệp; Tây Sơn Trung từ chân đèo An Khê đến núi Ngang (Hoành Sơn), là vùng có nhiều đồi núi hơn đồng bằng; Tây Sơn Hạ là miền đồng bằng bao gồm phần đất các thôn Trinh Tường, Phú Lạc trở xuống Thủ Thiện, Thọ Lộc, An Chánh, Vân Tường kéo về hai phía nam bắc.
Tây Sơn Thượng là vùng núi rừng hiểm trở, nơi cư trú của người Ba Na có tinh thần thượng võ. Theo nhà bác học Lê Quý Đôn, từ đầu thế kỷ XVIII, đã có những con đường bộ chính từ Thượng đạo, Trung đạo đến Hạ bạn nên ấp Tây Sơn đã trở thành đầu mối giao thông từ nam ra bắc, từ rừng xuống biển. Sách “Đại Nam chính biên liệt truyện” viết: “Năm Tân Mão (1771), Nhạc bèn thiết lập đồn trại ở Thượng đạo đất Tây Sơn...”.
Khi xây dựng căn cứ khởi nghĩa, anh em nhà Tây Sơn đã chọn vùng đất nầy làm nơi tụ nghĩa. Vì nơi đây có địa hình bằng phẳng, có núi cao, động hiểm, nhưng khí hậu lại ôn hoà nên rất thuận lợi cho việc xây dựng đồn luỹ, đóng quân; có đường giao thông toả đi khắp nơi, là trung tâm trao dổi hàng hoá, là nơi có thể tổ chức sản xuất tự túc, bảo đảm hậu cần cho quân đội; lại là nơi có nhiều mỏ sắt để rèn đúc vũ khí, có nguồn Phương Kiệu, có nhiều sản vật, có nhiều voi ngựa để vận chuyển lương thực và phục vụ chiến đấu.
Với thế chiến lược của căn cứ địa Tây Sơn, với sự bí mật, an toàn của một giang sơn riêng, lại được đồng bào Ba Na, đồng bào Thượng hết lòng ủng hộ, nghĩa quân Tây Sơn đã nhanh chóng phát triển lực lượng hùng mạnh, chinh Nam, dẹp Bắc, giành nhiều thắng lợi vẻ vang, lưu danh hậu thế.
Căm ghét và lo sợ địa danh Tây Sơn, tháng 9.1819, Gia Long bắt đổi ấp Tây Sơn thành ấp An Tây, sau lại đổi là An Sơn. Triều đình nhà Nguyễn còn ban hành nhiều luật lệ nghiêm cấm người Kinh định cư trên đất Thượng, người Thượng không được vượt quá An Sơn. Năm 1826, nhà Nguyễn, đổi tên An Sơn thành An Khê và cho lập tại đây 7 đồn: Trà Dinh, Xuân Viên, Tam Giang, Hương Thuỷ, Trúc Lâm, Vụ Bản và Đài Tiến. Năm 1870, vua Tự Đức cho lập Nha Doanh điền An Khê, mộ dân đến lập các ấp Tân Trạch, Tân Cư, Tân Tụ, Tân Khai, Tân tạo.. ; Tú tài Đặng Huy Hanh được bổ nhiệm làm An Khê Doanh điền sự vụ.
Hiện tại, trên địa bàn huyện An Khê, vốn là ấp Tây Sơn xưa, vẫn còn những dấu tích khởi nghĩa Tây Sơn.
Tại thôn An Luỹ (tên đặt từ năm 1963) có dấu tích Luỹ cũ 7 cạnh, chu vi khoảng 2km. Luỹ được đắp bằng đất, có hào, trồng tre. Đây là trung tâm sở chỉ huy xưa kia của nghĩa quân Tây Sơn. (Năm 1854, Tự đức cho đắp đồn đất tại luỹ nầy). Tại ấp Tây Sơn Nhì, sau là thôn Cửu An, cách thị trấn An Khê chừng 12 km, thôn An Điền Bắc có di tích Gò Đồn, nơi đóng quân luyện tập, Vườn Lính; An Điền Nam có Gò Trại là nơi đóng quân, Gò Kho là nơi chứa lương thực của nghĩa quân Tây Sơn. Tại thôn Tú Thuỷ có di tích Cánh đồng Cô Hầu rộng hơn 20 mẫu. Xa hơn nữa, về phía bắc, ở xã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Thạnh còn có dấu tích Vườn Cam Tây Sơn vẫn còn nhiều cây cam cổ thụ. Cách thôn An Luỹ 8km về phía đông, có Hòn Ông Bình (tên khác của Nguyễn Huệ), nằm đối diện phía tây nam là Hòn Ông Nhạc, là hai ngọn núi kỳ vĩ áng ngữ phía bắc đèo Mang Giang; một hệ thống Luỹ đất đồ sộ được đắp từ núi Ông Bình đến núi Ông Nhạc là dấu ấn hoành tráng của đồn luỹ phòng thủ căn cứ địa Tây Sơn Thượng đạo xưa kia.
Di tích Bãi Nhạn-Tam Toà
Bãi Nhạn (sử triều Nguyễn gọi là Nhạn Châu) là một doi đất nhọn nằm phía đông thành phố Quy Nhơn, nay thuộc địa bàn đồn biên phòng cửa khẩu 324 và một phần của khu vực I, phường Hải Cảng. Núi Tam Toà (nhân dân quen gọi là núi Đá Đen) nằm trên địa phận thôn Hải Minh (phường Hải Cảng), bên hữu cửa Thị Nại, đối diện Bãi Nhạn. Bãi Nhạn cùng với núi Tam Toà giữ một vị trí chiến lược quan trọng đối với cửa Thị Nại cũng như đối với thành Đồ Bàn của vương quốc Chămpa và thành Hoàng Đế nhà Tây Sơn xưa kia. Phối hợp bố phòng cẩn mật tại Bãi Nhạn-Tam Toà và khu vực phía nam bán đảo Phương Mai là khống chế không cho tàu thuyền vào cửa Thị Nại, tức là khống chế con đường thuỷ tiến vào thành Đồ Bàn-Hoàng Đế. Chính bởi vị trí quan trọng như vậy mà tại nơi đây đã diễn ra biết bao biến cố lịch sử gắn liền với sự hưng vong của nhiều triều đại.
Người Chiêm Thành khi chọn vùng đất Bình Định làm kinh đô, xây dựng thành Đồ Bàn, đã cho xây dựng thành Thị Nại, còn gọi là Thành Gỗ (Xem vần T, mục Thành cổ, trang 726), để đề phòng mặt biển. Giữa thế kỷ XI, khi Chiêm Thành có loạn, vua Chiêm đã cầu viện Đại Việt, vua Lý Thái Tông đã sai Hoàng tử thứ tám là Uy Minh Vương Lý Nhật Quang đang trấn giữ châu Nghệ An đem quân vào giúp. Quân của Lý Nhật Quang đóng ở dưới núi Tam Toà (núi Đá Đen). Quân phiến loạn Chiêm Thành nghe tin sợ hãi, vội cùng nhau kéo đến sụp lạy Uy Minh Vương xin tha tội và cam đoan một lòng trung thành với vua Chiêm. Người Chàm nhớ công đức Lý Nhật Quang, bèn lập đền thờ Uy Minh Vương dưới núi Tam Toà. Về sau, từ năm 1069 đến 1471, trong các cuộc hành quân của Đại Việt bình Chiêm, tại khu vực Bãi Nhạn-Tam Toà đã diễn ra nhiều trận đánh quyết liệt giữa hai bên. Đặc biệt, trong cuộc viễn chinh năm 1471, khi đóng quân ở cửa biển Thị Nại, vua Lê Thánh Tông đã đến miếu Tam Toà cầu đảo. Sau khi hạ được thành Đồ Bàn, trở về kinh, nhà vua đã phong cho Uy Minh Vương Lý Nhật Quang làm Thần Núi Tam Toà.
Thời Tây Sơn, quân của Nguyễn Ánh đã nhiều lần vào cửa Thị Nại đánh phá vùng đất Tây Sơn; chúng đã bị chặn đánh quyết liệt và tổn thất nặng nề tại khu vực Bãi Nhạn-núi Tam Toà. Phải đến năm Kỷ Mùi, 1799, Nguyễn Ánh mới chiếm được thành Hoàng Đế (triều Cảnh Thịnh đổi là thành Quy Nhơn) và cho đổi tên là thành Bình Định, rồi giao cho Võ Tánh và Ngô Tòng Châu ở lại giữ thành. Năm Canh Thân, 1800, các tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đem quân vào vây thành Bình Định, đã cho xây đồn bão và đặt súng lớn tại núi Tam Toà và Bãi Nhạn, dựa chỗ cao bắn xuống, phòng thủ rất cẩn mật. Quân của Võ Tánh, Ngô Tòng Châu ở trong thành bị vây hãm vô cùng nguy khốn. Thuỷ quân của Nguyễn Ánh kéo đến cứu viện, nhưng không thể lên bờ được vì bị đại bác của quân Tây Sơn đặt tại Bãi Nhạn-Tam Toà khống chế. Đến mùa xuân năm Tân Dậu, 1801, Nguyễn Ánh tập trung binh lực, quyết phá toang cánh cửa đầm Thị Nại. Một trận quyết chiến diễn ra tại cửa biển nầy kéo dài từ mờ sáng cho đến xẩm tối. Đây là trận quyết chiến lớn nhất trong cuộc chiến tranh Nguyễn-Tây Sơn. Cuối cùng, quân Nguyễn cũng đã vượt qua được hệ thống phòng thủ của quân Tây Sơn ở Bãi Nhạn-Tam Toà và vùng phía nam bán đảo Phương Mai để tái chiếm thành Bình Định, nhưng lại bị tổn thất hết sức nặng nề.
Sang thế kỷ XIX, nhận rõ vị trí chiến lược của cửa Thị Nại, nhà Nguyễn đã cho củng cố lại hệ thống phòng thủ ở đây, xây pháo đài, đắp luỹ, dựng kho tàng.
Thời gian trôi qua, đến nay những di tích vật chất của những sự kiện lịch sử xưa kia hầu như không còn gì đáng kể. Duy chỉ còn dấu tích một luỹ đá bọc theo mỏm núi Đá Đen. Luỹ cao 0,6 - 4 mét, tuỳ từng đoạn. Những viên đá núi kích cỡ tương đương nhau được xếp chồng lên nhau tạo thành luỹ. Nhiều chỗ tường luỹ còn tương đối nguyên vẹn; những chỗ thấp, cây cối đã phủ kín luỹ. Mặt trên của luỹ khá bằng phẳng, rộng chừng 0,5m.
Bãi Nhạn nay thành cảng cá, nơi đầu mũi nhô ra là địa điểm đóng quân của đồn biên phòng 324. Núi Tam Toà nay chỉ còn phế tích một ngôi đền khá lớn, dài 12m, rộng 7m, là đền thờ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang xưa. Khu vực phía nam bán đảo Phương Mai, nơi xưa kia có nhiều đồn luỹ, nay được ghi nhớ bằng những địa danh như đồn Mũi Cửa, đồn Ông Cai, đồn đất Bình Chính, bãi Luỹ (nay là xóm Vũng Tàu).
Di tích Bến Trường Trầu
Bến Trường Trầu xưa kia là một bến buôn bán trầu lớn bên bờ sông Côn, thuộc xóm Trầu, thôn Kiên Mỹ, ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn (nay là xóm Hưng Hoà, khối I, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn).
Kiên Mỹ, thời Tây Sơn, là một làng nông nghiệp là gốc, nhưng các nghề thủ công và buôn bán cũng được mở mang với xóm Rèn chuyên rèn dao, rựa, cuốc để trao đổi với đồng bào Thượng; xóm Bún chuyên làm bánh, bún; xóm Ươm chuyên nghề trồng dâu, nuôi tằm, kéo sợi; xóm Mía chuyên trồng mía, nấu đường; xóm Chợ chuyên nghề buôn bán; xóm Trầu có bến Trường Trầu bên bờ sông Côn buôn bán rất tấp nập
Thời đó, trầu, cau là hai sản phẩm nổi tiếng của cả vùng Tây Sơn Thượng và Hạ. Trầu có hai loại: trầu nguồn của đồng bào Thượng trồng ở Tây Nguyên là ngon nhất, trầu hương trồng ở miền xuôi kém ngon hơn. Cau cũng có hai loại: cau chuột trồng ở Tây Nguyên, quả nhỏ nhưng ngon, cau nước trồng trong vườn miền xuôi, quả to, nhưng không ngon bằng cau chuột. Trầu, cau từ Tây Sơn Thượng được đồng bào Thượng, hoặc gùi sau lưng đi đường bộ, hoặc dùng sõng theo dòng sông Côn xuống bến Trường Trấu đổi lấy muối, đồ sắt và các thứ hàng tiêu dùng khác. Trầu được xếp thành từng xấp 10 lá; 10 xấp là 100 lá…theo đó mà tính. Trầu, cau từ Kiên Mỹ theo các đường thuỷ, bộ đi khắp nơi trong vùng Tuy Viễn và phủ Quy Nhơn.
Tương truyền rằng ông Hồ Phi Phúc, thân sinh ba anh em nhà Tây Sơn, khi còn ở bên Phú Lạc, quê vợ, ngoài nghề nông, còn đi buôn ở miền ngược, miền xuôi; sau chuyển xuống Kiên Mỹ, ông tham gia buôn bán trầu, cau. Sau đó, Nguyễn Nhạc lại tiếp nối nghề cha, nên dân gian quen gọi ông là Anh Hai Trầu. Nguyễn Nhạc lên Tây Sơn Thượng mua trầu cau của đồng bào Thượng, rồi dùng thuyền xuôi sông Côn đem xuống bán ở bến Trầu, hay theo một con kênh đào vào bán ở chợ An Thái (nay là thị tứ An Thái, xã Nhơn Phúc, huyện An Nhơn), hoặc xuôi xuống Đập Đá để bán. Cạnh bến Trường Trầu, Nguyễn Nhạc có dựng một ngôi nhà để chứa trầu và làm quán trọ cho khách. Sau khi nhà Tây Sơn mất, nhân dân Kiên Mỹ có dựng trên nền nhà đó một ngôi miếu để thờ ba anh em nhà Tây Sơn, gọi là miếu Vĩnh Thọ (còn gọi là miếu Cây Gòn, vì có cây gòn to). Về sau, thực dân Pháp dùng làm kho chứa lương thực rồi phá huỷ. Đến năm 1963, có ba vị khất sĩ Nam Bộ ra cùng nhân dân địa phương xây dựng trên nền miếu cũ một ngôi chùa lợp tranh, năm 1967 mới xây gạch, gọi là chùa Tịnh Xá.
Nghề buôn bán trầu tại bến Trường Trầu đã có ảnh hưởng to lớn đến ba anh em Tây Sơn, nhất là Nguyễn Nhạc. Nhờ giao du qua buôn bán trầu cau, Nguyễn Nhạc đã mở rộng tầm nhìn, cách nghĩ; kết bạn nhiều người tốt, có tài, có chí; thấu hiểu nỗi thống khổ và bất bình của nhân dân các nơi đối với bọn quan cai trị đương thời, nên khi dựng cờ khởi nghĩa, anh em nhà Tây Sơn dễ dàng thu phục nhân tâm, quy tụ hiền tài nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Chính nhờ đi buôn bán trầu, cau mà Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ biết được danh tiếng ông Đinh Văn Nhưng (ông Chảng) và được ông truyền dạy võ công.
Hơn hai trăm năm đã trôi qua. Bến Trường Trầu xưa kia sâu thăm thẳm, ghe thuyền dễ dàng cập bến, nay đã bị bồi lấp, vào mùa khô chỉ còn là một bãi cát trắng ven sông. Bến xưa, nay không còn nữa, nhưng địa danh Bến Trường Trầu đã đi vào lịch sử và được khắc sâu trong ký ức dân gian: ”Cây me cũ, bến Trầu xưa, Không nên tình nghĩa, thì cũng đón đưa cho trọn niềm“.
Năm 1986, Bến Trường Trầu được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia.
Di tích Cánh đồng Cô Hầu
Làng Cổ Yêm xưa kia (nằm phía trong và cách Tú Thuỷ chừng 12 km) có một cánh đồng rộng mênh mông, ở giữa vun cao vì có một ngọn núi, ban đêm chim bay về đây ngủ đông nghịt nên gọi là rừng Mộ Điểu. Vị tù trưởng Ba Na làm chủ vùng núi rừng nầy. Ông có người con gái tên là Yã Đố, gả cho Nguyễn Nhạc, về sau trở thành Thứ phi, tục gọi là Cô Hầu có công khai phá, tạo dựng cánh đồng nầy, nên cánh đồng Mộ Điểu được gọi là Cánh đồng Cô Hầu.
Sau khi thu phục được đồng bào Ba Na tham gia khởi nghĩa, Nguyễn Nhạc đã dùng rừng Mộ Điểu làm căn cứ, dinh trại đóng trên núi, rừng được khai phá để trồng lương thực phục vụ nghĩa quân. Cô Hầu trực tiếp đảm nhận nhiệm vụ khai khẩn, canh tác, thu hoạch lương thực tại cánh đồng Mộ Điểu. Khi Nguyễn Nhạc lên ngôi, được phong làm Thứ phi, nhưng Cô Hầu không quen sống ở kinh thành nên đã xin trở về cánh đồng Mộ Điểu để chuyên lo việc hậu cần và xây dựng hậu cứ cho nhà Tây Sơn. Khi nhà Tây Sơn thất bại, một số tướng lĩnh và thân nhân anh em nhà Tây Sơn đã đến tá túc, nương nhờ tại cánh rừng Mộ Điểu và đã được Cô Hầu và đồng bào Ba Na hết lòng đùm bọc, cưu mang, chở che, nuôi dưỡng.
Từ những sự tích trên, nên cánh đồng Mộ Điểu được gọi là Cánh đồng Cô Hầu, còn ngọn núi nằm giữa cánh đồng, coi như nơi phát tích nhà Tây Sơn, được tôn xưng là Núi Hoàng Đế.
Hiện nay, Cánh đồng Cô Hầu đã trở thành một vùng dân cư trù mật, đồng ruộng xanh tươi nằm trên địa phận thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai.
Di tích Đình Kiên Mỹ-Điện Tây Sơn
Đình Kiên Mỹ-Điện Tây Sơn là nơi thờ ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, nay nằm trong khuôn viên nhà Bảo tàng Quang Trung, thuộc khối I, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn.
Tương truyền rằng, sau một thời gian cư trú bên quê vợ là làng Phú Lạc, thuộc ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn, ông Hồ Phi Phúc và vợ là bà Nguyền Thị Đồng chuyển sang định cư tại làng Kiên Mỹ, cũng thuộc ấp Kiên Thành. Khi dời sang Kiên Mỹ, ông bà Hồ Phi Phúc đã tích cực khai hoang được 3 mẫu, 2 sào ruộng. Ngoài việc nông tang, ông bà còn buôn bán, nhất là về trầu, cau đang rất thịnh ở đất Tây Sơn thời bấy giờ. Làm ăn khá giả, ông bà xây dựng tại Kiên Mỹ một ngôi nhà khang trang, có cây me, giếng nước. Tuổi thơ của anh em Tây Sơn đã đi qua tại đây. Sự nghiệp nhà Tây Sơn cũng bắt đầu từ đây.
Sau khi nhà Tây Sơn bị sụp đổ, nhà Nguyễn thi hành chính sách trả thù hèn hạ và tàn bạo. Kiên Mỹ, quê hương anh em Tây Sơn bị huỷ hoại, nhà cửa bị tàn phá, ruộng đất bị tịch thu. Để thể hiện lòng biết ơn nhà Tây Sơn đã đem lại cho dân nghèo nhiều quyền lợi thiết thực, nhân dân Tuy Viễn đã góp tiền của, công sức xây dựng lại ngôi nhà của anh em Tây Sơn ngay trên nền đất cũ, làm nơi thờ tự ông bà Hồ Phi Phúc. Ngôi từ đường nầy sau bị nhà Nguyễn phá huỷ.Nhưng về sau, nhân dân Kiên Mỹ lại dựng lên ngay trên nền ngôi nhà đó một ngôi đình, gọi là Đình Kiên Mỹ. Đình quay mặt về hướng nam, ngoài cùng là cổng xây bằng đá ong và vôi vữa, tiếp theo là bình phong, hai bên có hai cột trụ. Nhà chính là tiền đường và hậu tẩm, khung gỗ, lợp theo lối lá mái. Đình Kiên Mỹ nổi tiếng khắp vùng với những cột đình to, người ôm không xuể, cũng như chợ Đình (thôn Vạn Tường, xã Bình Hoà) nổi tiếng về những con hạc cao, sơn son thếp vàng rất đẹp. Nên trong dân gian có câu: “Không hạc nào cao bằng hạc chợ Đình; Không cột đình nào to bằng cột đình Kiên Mỹ”.
Đình Kiên Mỹ lập ra là để bí mật thờ “Ba Ngài Tây Sơn”. Hằng năm, vào ngày 15 tháng 11 âm lịch, tức vào dịp lễ thường tân (tết cơm mới), dân làng cúng giỗ “Ba Ngài”, nhưng thường chỉ cúng hương hoa và chỉ “mật cáo“ chứ không có văn tế. Lời “mật cáo“ được truyền miệng từ đời người phụng tế nầy đến đời người phụng tế khác. Năm 1947, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, đình Kiên Mỹ bị phá, dân làng dựng một ngôi miếu nhỏ để tiếp tục thờ cúng ba anh em Tây Sơn. Đến năm 1958, nhân dân Bình Khê đã đóng góp công của xây lại ngôi miếu khang trang hơn, đến năm 1960 thì khánh thành, lấy tên là Điện thờ Tây Sơn tam kiệt, hay Điện Tây Sơn.
Điện Tây Sơn tuy nhỏ nhưng trang nghiêm. Trước sân rộng vốn là nền chợ Kiên Mỹ cũ, có tam quan, tiếp đó là nhà bia ghi công đức của Quang Trung-Nguyễn Huệ, viết bằng chữ quốc ngữ. Chính giữa điện gồm ba gian, gian giữa thờ Quang Trung-Nguyễn Huệ, có bức tranh ông cưỡi ngựa đặt trong khung lồng kính; gian bên trái thờ Nguyễn Nhạc; gian bên phải thờ Nguyễn Lữ. Hai đầu hồi là bàn thờ các tướng Tây Sơn. Giá trị của Điện Tây Sơn không phải là kiến trúc mà ở ý nghĩa lịch sử to lớn của nó là được xây trên nền nhà cũ của ông bà Hồ Phi Phúc, nơi ba anh em Tây Sơn dã cất tiếng khóc chào đời, đã đi qua tuổi ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, phất cờ khởi nghĩa và trở thành những lãnh tụ kiệt xuất của nông dân và dân tộc vào cuối thế kỷ XVIII.
Hiện nay trong khu vườn cũ của gia đình anh em Tây Sơn vẫn còn hai di tích cực kỳ quý giá. Đó là Cây me cổ thụ và Giếng nước xưa, tương truyền là có từ thời Hồ Phi Phúc.
Hai Cây me cổ thụ bên cạnh Điện Tây Sơn cành lá xum xuê che rợp cả một góc vườn. Cây me bên trái điện nhiều tuổi hơn, gốc cây có chu vi tới 3,5m. Cùng Bến Trường Trầu, Cây Me đã đi vào ký ức dân gian địa phương “Cây Me cũ, bến Trầu xưa, Không nên tình nghĩa, cũng đón đưa cho trọn niềm”.
Giếng nước ở bên phải Điện Tây Sơn, đường kính 0,9m, trước đây xây bằng đá ong và không sâu như bây giờ. Sau nầy dân làng vét sâu hơn và xây cao hơn mặt đất 0,8m để làm giếng chung cho cả làng.
Hiện nay, Điện Tây Sơn đã được cải tạo, nâng cấp bề thế, đẹp đẽ; tượng ba anh em nhà Tây Sơn được đúc mới trông uy nghi, sáng chói.
Ngày 31.12.2014, khu đền thờ Tây Sơn Tam kiệt được Thủ tướng Chính phủ ra quyết định công nhận là di tích quốc gia đặc biệt.
Di tích Gò Đá Đen
Gò Đá Đen là địa điểm luyện tập và xuất binh của nghĩa quân Tây Sơn, trước kia thuộc địa phận làng Kiên Mỹ, ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, nay thuộc khối I, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn. Di tích Gò Đá Đen nằm cách Bảo tàng Quang Trung khoảng 500m về phía bắc.
Làng Kiên Mỹ không chỉ là nơi sinh thành mà còn là một trong những căn cứ quan trọng buổi đầu của anh em nhà Tây Sơn. Năm 1771, ba anh em Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa ở Tây Sơn Thượng đạo. Đến năm 1773, nghĩa quân tiến xuống giải phóng vùng Tây Sơn Hạ đạo và đóng chỉ huy sở ở ấp Kiên Thành mà trung tâm là làng Kiên Mỹ. Nằm dưới chân đèo An Khê, bên tả ngạn sông Côn, Kiên Mỹ có vị trí rất thuận lợi, là đầu mối giao thông thuỷ bộ. Từ Kiên Mỹ có thể theo đường bộ qua An Khê, theo đường thuỷ, ngược dòng sông Côn lên vùng đồng bào Thượng, hoặc xuôi xuống vùng đồng bằng, ra đến ven biển. Làng Kiên Mỹ-ấp Kiên Thành, nơi đặt đại bản doanh của nghĩa quân Tây Sơn, là điểm xuất quân đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn năm 1773 và giải phóng vùng đồng bằng rộng lớn của phủ Quy Nhơn.
Trên đất Kiên Mỹ, ngoài các di tích Cây Me, Giếng Nước, Bến Trường Trầu, còn có Vườn Dinh, Vi Tập Binh, Vi Cấm Cố, Gò Đá Đen, Gò Cứt Cu là những địa danh liên quan đến sở chỉ huy và doanh trại nghĩa quân Tây Sơn.
Vườn Dinh ở phía đông Bảo tàng Quang Trung hiện nay, tương truyền là doanh trại trung tâm, tức sở chỉ huy của quân Tây Sơn.
Vi Tập Binh ở phía bắc Vườn Dinh, tương truyền là khu vực đóng quân.
Vi Cấm Cố, tương truyền là trại giam tù binh.
Gò Đá Đen và Gò Cứt Cu ở phía bắc Bảo Tàng Quang Trung, tương truyền là nơi luyện tập của nghĩa quân. Gò Đa Đen là một bãi đất cao, rộng, vốn là một rừng hoang có diện tích ước khoảng 5 ha, chạy dài từ Phú Lạc đến giáp Bàu Đáo. Giữa gò nổi lên một tảng đá rất lớn, màu đen nhánh, nên nhân dân gọi gò nầy là Gò Đá Đen.
Di tích Làng Kiên Mỹ
Làng Kiên Mỹ, nơi sinh trưởng của ba anh em nhà Tây Sơn, cũng là quê hương thứ ba của dòng họ Tây Sơn ở Đàng Trong, xưa kia thuộc ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn, nay là khối I và khối IA, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn. Làng nầy được hình thành từ thời chúa Nguyễn bắt nhân dân Đàng Ngoài di cư vào Nam khai hoang, lập ấp, nhưng hiện chưa biết chính xác là vào năm nào.
Do ở vào một vị trí có nhiều thuận lợi, nên kinh tế Kiên Mỹ phát triển theo hướng kết hợp đa ngành nghề. Nông nghiệp vẫn là gốc, nhưng nghề thủ công và buôn bán cũng được mở mang với các xóm cổ mang tên nghề thủ công và buôn bán. Xóm Rèn (sau đổi là Mỹ Ngọc, Mỹ Đại, Hưng Nguyên) chuyên rèn dao, rựa, cuốc, xuổng, và các dụng cụ bằng sắt để trao đổi với đồng bào Thượng. Xóm Đậu (sau đổi là Mỹ Tu, Hưng Bửu) chuyên làm bún và các loại bánh hỏi, bánh tráng, bánh ướt. Xóm Mía (sau đổi là Hưng Thạnh) chuyên trồng mía, nấu đường, nấu mật. Xóm Ươm (sau đổi là Mỹ Hoá, Hưng Hoá) chuyên nghề trồng dâu, nuôi tằm, kéo sợi. Xóm Chợ (sau đổi là Mỹ Trung, Hưng Trung) chuyên nghề buôn bán đủ các mặt hàng (Khi xây dựng Bảo tàng Quang Trung, dân xóm Chợ chuyển vào xóm Mới). Xóm Trầu (sau đổi là Mỹ Hoà, Hưng Hoà), xưa có bến Trường Trầu bên bờ sông Côn buôn bán rất tấp nập, là xóm phồn thịnh nhất của làng Kiên Mỹ xưa kia.
Tương truyền rằng ông Hồ Phi Phúc, thân sinh ba anh em Tây Sơn, khi còn ở Phú Lạc, bên cạnh nghề làm nông còn đi buôn bán ở nhiều nơi, nên đã chuyển về Kiên Mỹ để được thuận lợi hơn trong việc buôn bán. Tại Kiên Mỹ, ngoài nghề nông tang, ông bà Hồ Phi Phúc còn làm thêm nghề buôn bán, nhất là buôn bán trầu, cau. Về sau, Nguyễn Nhạc tiếp tục nối nghiệp cha buôn bán trầu, cau. Cạnh bến Trường Trầu, Nguyễn Nhạc có dựng một ngôi nhà để chứa trầu và làm quán trọ cho khách hàng. Sau khi nhà Tây Sơn mất, nhân dân Kiên Mỹ có dựng trên nền cũ ngôi nhà đó một ngôi miếu để thờ ba anh em nhà Tây Sơn, gọi là miếu Vĩnh Thọ ( còn gọi là miếu Cây Gòn, vì có cây gòn to). Ngôi miếu bị giặc Pháp phá huỷ, đến năm 1963, 3 khất sĩ Nam Bộ đã ra đây cùng nhân dân sở tại xây dựng một ngôi chùa nhỏ lợp tranh trên nền miếu cũ, đến năm 1967 thì lợp ngói, gọi là chùa Tịnh Xá.
Di tích Làng Phú Lạc
Làng Phú Lạc, quê ngoại của lãnh tụ Tây Sơn, xưa thuộc ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn, nay thuộc xã Bình Thành, huyện Tây Sơn.
Phú Lạc là một làng được hình thành từ khá sớm, ban đầu có ba xóm là Phú Thọ Chính, Phú Thọ Nam và Phú An; sau có thêm hai xóm là Phú Xuân và Mỹ Thọ; sau Cách mạng tháng 8.1945 có thêm hai xóm mới nữa là Chơm Tự và Bình Đồn.
Nằm ở vùng bán sơn địa, địa hình làng Phú Lạc có hai phần rõ rệt: phía bắc là rừng núi chiếm hơn nửa diện tích, phía nam là dân cư và đồng ruộng. Dân sống nghề nông là chủ yếu. Tại làng nầy, từ xưa đã xây dựng nhiều đập nước từ suối nhỏ vào đồng ruộng như đập Ông Phó, đập Ông Mùa, đập Lộc Đỗng, đập Kiền Kiền và đập Vân Phong sau nầy.
Tổ bốn đời của lãnh tụ Tây Sơn, vốn họ Hồ ở Nghệ An, khoảng giữa thế kỷ XVII, bị chúa Nguyễn bắt vào Đàng Trong cùng với nhiều người khác, đưa đi khai phá đất đai, lập ra ấp Tây Sơn, thuộc huyện Tuy Viễn, phủ Quy Ninh (sau đổi là phủ Quy Nhơn). Âp Tây Sơn là quê hương khẩn hoang đầu tiên của dòng họ anh em nhà Tây Sơn trên đất Đàng Trong. Đến đời thứ ba là Hồ Phi Phúc lấy vợ là bà Nguyễn Thị Đồng, người làng Phú Lạc, ấp Kiên Thành. Hồ Phi Phúc chuyển về cư trú ở quê vợ. Làng Phú Lạc trở thành quê hương thứ hai của dòng họ nhà Tây Sơn.
Ông bà Hồ Phi Phúc, Nguyễn Thị Đồng đã sinh sống, lập nghiệp tại Phú Lạc một thời gian. Tại đây, ông bà có 3 mẫu, 2 sào ruộng. Ngoài ra, ông còn làm nghề chở đò và buôn bán miền xuôi, miền ngược. Về sau, ông bà chuyển sang định cư tại làng Kiên Mỹ cũng thuộc ấp Kiên Thành. Đây là quê hương thứ ba của dòng họ Tây Sơn ở Đàng Trong và là nơi sinh trưởng ba anh em nhà Tây Sơn.
Nhà Tây Sơn mất, nhà Nguyễn thi hành chính sách trả thù tàn bạo, Làng Phú Lạc bị tàn phá, những di vật liên quan đến nhà Tây Sơn đều bị thủ tiêu. Vì thế hiện nay, ở Phú Lạc chỉ còn lại một số di tích dưới dạng phế tích.
Di tích Gò Lăng thuộc đất xóm Phú Thọ Chính, giáp với Phú Thọ Nam. Tương truyền đây là nền nhà và vườn của ông bà Hồ Phi Phúc. Nhà cửa ở đây đã bị huỷ hoại, dấu vết còn lại là một nền nhà bằng phẳng và mảnh vườn rộng khoảng 2 sào. Trên mảnh vườn còn một cây cổ thụ, cây thị. Cạnh gốc cây thị có một miếu nhỏ, thường gọi là miếu Sơn Quân (miếu thờ Thần Núi). Miếu nầy xây sớm hơn đình Phú Lạc. Năm 1945, miếu nầy được tu sửa một lần nữa. Theo dân gian, về danh nghĩa thì miếu nầy thờ sơn thần, nhưng trên thực tế là thờ ông bà Hồ Phi Phúc. Trước đây, dưới thời nhà Nguyễn, hằng năm vào dịp Tết Thanh minh, nhân dân phải tổ chức cúng tế tại miếu dưới hình thức mật niệm, về sau nầy, việc cúng tế được công khai, đến nay vẫn tiếp tục duy trì. Cũng theo dân gian, ngày xưa, cạnh nhà ông bà Hồ Phi Phúc có một cây bồ đề to lớn, anh em Tây Sơn mỗi khi vè thăm quê ngoại thường buộc ngựa tại gốc cây bồ đề.
Di tích Đình Phú Lạc nằm trên đất xóm Phú Thọ Nam. Đình chỉ có một gian, hai chái. Cạnh đình là chùa, sau đình là lẫm (kho). Tương truyền, đình trước đây bề ngoài là thờ Thành Hoàng để che mắt chính quyền nhà Nguyễn, nhưng trên thực tế là thờ “Ba Ngài Tây Sơn“. Hằng năm, vào ngày 15 tháng 11 âm lịch, dân làng tổ chức cúng tế “Ba Ngài“ dưới danh nghĩa cúng thường tân (cơm mới).
Di tích Hố Huyệt nằm dưới chân núi Hòn Một thuộc dãy Núi Ngang phía nam sông Côn, nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn. Tương truyền, nơi đây là hai nấm mộ của ông bà Hồ Phi Phúc, Nguyễn Thị Đồng. Sau khi nhà Tây Sơn thất bại, triều đình Nguyễn cho quân về đây quật phá. Nay dấu vết còn lại là hai hố huyệt cách nhau gần 1 mét.
Di tích Khu Trường Dược, còn gọi là Gò Trường Dược, nằm ở phía hữu ngạn suối Bà Trung, phía tây Phú Lạc. Tương truyền xưa kia đây là nơi nghĩa quân Tây Sơn luyện thuốc súng. Trước đây còn có vết tích nhà kho, nay chỉ là một vùng đất gò rộng hơn 2 mẫu dùng trồng hoa màu.
Di tích Tân phủ Càn Dương
Sau khi đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn, tiến quân đánh chiếm các kho Càn Dương, Đạm Thuỷ, Nguyễn Nhạc xây dựng tại Càn Dương một phủ thành mới gọi là Tân phủ Càn Dương. Di tích Tân phủ nằm ở phía tây bắc làng Trường Thịnh, sát chân núi Càn Dương, xưa kia thuộc huyện Phù Ly, nay thuộc xã Cát Tiến, huyện Phù Cát. Di tích là một khu đất trống rộng khoảng 6 ha, địa phương đã san ủi để xây dựng khu kinh tế mới. Tuy nhiên, nay vẫn còn dấu vết một số công trình như Nền Dinh, Nền Kho, Hòn Đá Dài, Luỹ đất, Trại lính, Bàu tắm voi..
Di tích Thành Chánh Mẫn
(Xem vần T, mục Thành cổ, tiểu mục Thành Chánh Mẫn)
Di tích Thành Hoàng Đế
(Xem vần T, mục Thành cổ, tiểu mục Thành Hoàng Đế)
Di tích Từ đường Võ Văn Dũng
Từ đường danh tướng Võ Văn Dũng được xây dựng ngay trên quê hương ông, nay là thôn Phú Mỹ, xã Tây Phú, huyện Tây Sơn (xưa kia là làng Phú Lộc thuộc ấp Phú An, tổng Thời Đôn, huyện Tuy Viễn). Phú Mỹ nằm gần Phú Lạc, Kiên Mỹ, quê hương của anh em Tây Sơn.
Theo gia phả họ Võ thì thuỷ tổ họ Võ ở Phú Mỹ là Võ Văn Của, quê gốc Nghệ An, di cư vào Nam từ thế kỷ XVII, đến lập nghiệp tại làng Phú Lộc. Đến đời thứ hai là Võ Văn Thọ, gia thế họ Võ đã khá giả. Võ Văn Thọ đã xuất tài lực tổ chức việc đắp đập Lộc Đỗng và tham gia đắp nhiều đập khác lấy nước tưới ruộng, không chỉ cho Phú Mỹ mà cho nhiều làng trong vùng. Đời thứ ba là Võ Văn Khanh là người tài giỏi, có công với nước, được phong tước Nam. Võ Văn Khanh kết duyên cùng Nguyễn Thị Điểm sinh được hai người con trai là Võ Văn Chỉnh và Võ Văn Dũng. Như vậy, đến Võ Văn Dũng thì họ Võ đã sinh cơ lập nghiệp ở Phú Mỹ được bốn đời, cũng giống như họ Hồ-Nguyễn của các thủ lĩnh Tây Sơn.
Ngay tử buổi đầu, ba anh em Nhà Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa, Võ Văn Dũng đã có mặt. Ông đã phụng sự nhà Tây Sơn cho đến khi trút hơi thở cuối cùng. Có thể nói rằng mỗi bước phát triển, mỗi thắng lợi của phong trào Tây Sơn đều có dấu ấn của Võ Văn Dũng (Xem vần D, mục Danh nhân thời Tây Sơn).
Làm quan to trong triều đình Tây Sơn, giữ quyền cao, chức trọng từ Đô đốc, rồi Đại Tư Khấu, Đại Tư Đồ, Chiêu Vũ Hầu, Võ Quốc Công, nhưng Võ Văn Dũng vẫn không quên trách nhiệm của mình với quê hương, với dòng họ. Ngôi chùa Phước Sơn được xây cất khang trang là do Võ Văn Dũng đóng góp tiền của. Vì thế mà hiện nay trong chùa có bài vị thờ Võ Văn Dũng: ”Phước Sơn tự chủ tự tỏnh Võ Văn Dũng, huý Độ, tính hữu công đức chư vong linh sơn thần vị”.
Võ Văn Dũng, dù là con thứ nhưng đã được cha là Võ Văn Khanh trao quyền thừa tự. Ngôi nhà 12 gian của ông bà Võ Văn Khanh-Nguyễn Thị Điểm sau nầy được truyền cho con cháu Võ Văn Dũng đã bị phá từ lâu. Đến năm 1945, Võ Văn Thiều, cháu 5 đời của Võ Văn Dũng, đã cho xây cất trên nền nhà cũ ngôi từ đường 7 gian. Ngôi từ đường nầy cũng đã bị phá huỷ trong chiến tranh. Đến năm 1972, Võ Văn Diệu, cháu 6 đời của Võ Văn Dũng cho xây lại từ đường, vẫn trên nền cũ. Từ đường nầy gồm 5 gian, quay hướng đông, tường xây gạch, mái lợp ngói, trần lát gỗ. Đó là từ đường họ Võ.
Từ đường Võ Văn Dũng đang tồn tại hiện nay, có bức đại tự Võ Từ đường, các bài vị thờ và bài vị Võ Văn Dũng (nay đã được đưa về trưng bày tại Bảo tàng Quang Trung) Hăng năm đến ngày mùng 8 tháng 2 âm lịch, con cháu dòng họ Võ tâp trung về đây cúng giỗ để tưởng nhớ tổ tiên, cũng là để tưởng nhớ Võ Văn Dũng, một vị tướng lỗi lạc, đã có những đóng góp xuất sắc đối với phong trào Tây Sơn, với dân tộc, làm rạng danh họ Võ và quê hương Bình Định.
Di tích Từ đường Bùi Thị Xuân
Nữ danh tướng Bùi Thị Xuân hiện được thờ tại từ đường chính phái họ Bùi, nằm ở xóm bắc thôn Phú Xuân, xã Tây Xuân, huyện Tây Sơn, được gọi là Từ đường Bùi Thị Xuân.
Bùi Thị Xuân quê ở ấp Xuân Hoà, tổng Phú Phong, huyện Tuy Viễn (nay là thôn Phú Xuân, xã Tây Xuân, huyện Tây Sơn). Xuân Hoà có 3 xóm Đông, Trung, Bắc. Dân ở đây sống rải rác dọc theo bờ sông Côn. Dân Xuân Hoà chủ yếu sống bằng nghề nông, đồng thời có làm một số nghề thủ công như gạch, ngói, đan lát, trồng dâu, nuôi tằm, trồng bông, kéo sợi. Chính tại làng quê bình dị nầy, vị nữ tướng “tuy thân bồ liễu, sức như anh hùng” đã sinh ra và thành danh.
Bùi Thị Xuân là một nữ tướng tài ba, là một trong những danh tướng lập công đầu của Nhà Tây Sơn; đã chiến đấu vì sự nghiệp vẻ vang của phong trào Tây Sơn đến hơi thở cuối cùng. Khi bị Nguyễn Ánh bắt và xử bằng cách cho voi giày, Bà vẫn hiên ngang, lẫm liệt khiến con voi bị bắt ép làm đao phủ phải nhiều lần chùn bước.
Ghi nhớ những chiến công oanh liệt, những đóng góp to lớn của Bùi Thị Xuân đối với phong trào nông dân Tây Sơn, nhân dân địa phương đã lập đền thờ vị nữ tướng anh hùng. Đền thờ Bùi Thị Xuân là một ngôi nhà nhỏ, ba gian làm bằng gỗ lim. Bàn thờ chính đặt ở gian giữa. Ngoài các đồ thờ cúng còn có một bức tranh Bùi Thị Xuân cưỡi voi, hai tay cầm song kiếm. Theo gia đình họ Bùi, bức tranh này do một hoạ sĩ tên là Đỗ Lê phóng tác trên cơ sở nghe lại những truyền thuyết về bà (Đền thờ Bùi Thị Xuân đã được nâng cấp khang trang, hoành tráng vào tháng 7.2008).
Họ Bùi còn một từ đường thứ phái còn giữ được hai bức đại cổ tự, một đề Bùi từ đường, còn bức kia đề Quang tiền liệt. Một số hiện vật ở Từ đường Bùi Thị Xuân hiện đã được đưa về trưng bày tại Bảo tàng Quang Trung.
Trên quê hương Bùi Thị Xuân hiện còn một số di tích gắn liền với gia đình và cuộc đời bà.
Di tích Vườn Dinh, tương truyền là dinh của Bùi nữ tướng, nằm ngay phía sau từ đường chính phái. Di tích còn lại là một mảnh đất dài chừng 80m chạy theo hướng bắc-nam, rộng khoảng 25m. Dân làng kể lại rằng trước đây trong vườn có những cây duối cổ thụ, gốc rất to là nơi Bùi Thị Xuân thường buộc voi.
Di tích Trường Võ, nơi luyện võ của Bùi Thị Xuân, nay là một khu đất cao, diện tích chừng 1 mẫu, 9 sào nằm gần sát cầu Đồng Sim trên quốc lộ 19.
Di tích Gò Đình, tương truyền là nơi Bùi Thị Xuân dạy voi. Gọi là Gò Đình, vì xưa kia tại nơi đây có một ngôi đình lớn chung cho cả 7 làng. Gò Đình nay thuộc vị trí trường tiểu học Bùi Thị Xuân. Quanh khu vực nầy trước đây là ruộng của họ Bùi. Minh Mạng sung công và gọi đó là “nguỵ điền”. Cạnh Gò Đình, về phía tây, có một gò đất khác, cao hơn, vuông vắn, rộng khoảng 1 mẫu, tục gọi Gò Me. Phía bắc gò hiện vẫn còn một cây me cổ thụ, cạnh đó có dấu tích một bệ tam cấp xây bằng gạch cổ, tương truyền là chỗ để Bùi Thị Xuân đứng trèo lên voi mỗi khi chỉ huy tập luyện.
Di tích Phong trào Cần Vương
Phong trào Cần vương Bình Định đã khắc ghi vào lịch sử dân tộc những trang oanh liệt, những chấm son chói lọi. Di tích Phong trào Cần Vương Bình Định là niềm tự hào của các thế hệ người Bình Định về tinh thần quật khởi chống thực dân Pháp xâm lược.
Di tích Bàu Sấu-Kỳ Đồng
Kỳ Đồng là một trong những căn cứ quan trọng của nghĩa quân Cần Vương Mai Xuân Thưởng. Núi Kỳ Đồng, còn có tên là núi Bà Lam, là một hòn độc sơn án ngữ ba thôn Tây Đức, Đại An và Thíết Tràng của Nhơn Mỹ, thị xã An Nhơn. Núi không cao lắm, chỉ khoảng chừng 100m. Đỉnh núi toàn sỏi đá, không có cây lớn; khắp nơi chỉ toàn sim mua, mọc thành từng bụi rậm. Núi dài thoai thoải, nhìn từ phía tây lại, dải núi như nối liền với các gò đống nhấp nhô tạo thành dáng một con rồng đang uốn khúc. Có lẽ do hình thù như vậy mà các nhà phong thuỷ gọi núi Kỳ Đồng là “Thanh Long”. Núi nằm sát bờ phía tây sông La Vỹ, nhìn qua bên kia là thành cổ Đồ Bàn. Dưới chân núi Kỳ Đồng, phía tây có một bàu nước rộng và sâu, tên chữ là Ngạc Đàm, tục danh là Bàu Sấu (vì xưa kia trong đầm có cá sấu). Bàu Sấu nổi tiếng có nhiều cá, nhất là cá chép. Cá chép ở đây rất lớn và có màu sắc lạ; vảy ánh như đồng mà đôi mắt thì đỏ rực. Núi Kỳ Đồng được coi là một trong “Tứ linh”, toạ lạc bên một bàu nước rộng mênh mông, được gọi là “Thanh long ẩm thuỷ“, nên Bàu Sấu cũng có thể coi là một thắng cảnh đẹp trong vùng. Bàu Sấu-Kỳ Đồng nổi tiếng và đi vào lịch sử vì nơi đây đã diễn ra một sự kiện bi hùng, gắn liền với tên tuổi của vị Nguyên soái anh hùng Mai Xuân Thưởng.
Đầu năm 1887, quân Pháp phối hợp với quân Triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy, tấn công trên quy mô lớn vào các căn cứ của nghĩa quân Cần Vương. Do quá chênh lệch về lực lượng và vũ khí, nên nhiều vị trí hiểm yếu của nghĩa quân như Kho Lương, Thứ Hương Sơn, Bắc Trại, Nam Trại đều bị giặc chiếm. Trước tình thế ấy, Mai Xuân Thưởng quyết định đánh một trận sống mái với quân thù. Ông chọn Bàu Sấu làm nơi bày trận. Dưới sự chỉ huy của ông, nghĩa quân đã chiến đấu vô cùng dũng cảm với quân địch suốt hai ngày đêm. Nhưng vì quân địch rất đông, lại được yểm trợ bằng hoả lực mạnh, nên nghĩa quân không thể chống đỡ nổi. Quân ta bị tổn thất lớn; chủ soái Mai Xuân Thưởng bị trọng thương. Ông đã cùng tàn quân rút về mật khu Linh Đỗng, quyết chí phòng thủ, củng cố lực lượng chờ dịp phản công. Mật khu Linh Đỗng bị vỡ, Mai Xuân Thưởng sa vào tay giặc vào ngày 4/5/1887, và hơn một tháng sau thì bị xử trảm.
Di tích đồn luỹ tại căn cứ Kỳ Đồng-Bàu Sấu bị thực dân Pháp cho san phẳng, không còn để lại dấu vết gì.
Di tích Lăng Mai Xuân Thưởng
Lăng Mai Xuân Thưởng, lãnh tụ phong trào Cần Vương Bình Định, nằm trên một đồi cao thuộc thôn Hoà Sơn, xã Bình Hoà, huyện Tây Sơn.
Mai Xuân Thưởng lúc nhỏ có tên là Mai Văn Siêu, quê làng Phú Lạc, nay thuộc xã Bình Thành, huyện Tây Sơn. Mai Xuân Thưởng thi đỗ cử nhân tại Trường Thi Bình Định; ông giỏi cả văn lẫn võ. Lúc nầy, kinh thành Huế bị thất thủ sau cuộc binh biến không thành do Tôn Thất Thuyết cầm đầu. Ông rời Trường Thi, về làng chiêu mộ được 200 nghĩa sĩ ngày đêm luyện tập, chờ thời cơ giúp nước. Vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, phong trào Cần Vương kháng Pháp ở Bình Định do Đào Doãn Địch cầm đầu dâng lên mạnh mẽ. Đào Doãn Địch lâm bệnh nặng, trước khi qua đời, ông giao toàn bộ binh quyền cho Mai Xuân Thưởng lúc nầy mới 25 tuổi.
Dưới sự chỉ huy của Mai Xuân Thưởng, phong trào Cần Vương Bình Định ngày càng phát triển mạnh mẽ (Xem vần D, mục Danh nhân Phong trào Cần Vương, tiểu mục Mai Xuân Thưởng).
Năm 1887, trước sự phản công quyết liệt của quân Pháp phối hợp với quân Nam triều, phong trào Cần Vương Bình Định bị dập tắt, Mai Xuân Thưởng cùng nhiều thuộc hạ bị giặc bắt và xử chém tại Gò Chàm.
Thi hài Mai Xuân Thưởng được nhân dân đem về mai táng lại quê hương ông là làng Phú Lạc, trên một gò cao thuộc xứ Cây Muồng, nơi cha ông đã yên nghỉ. Năm 1961, nhà thơ Quách Tấn đứng ra vận động xây dựng lăng mộ nhà yêu nước, lãnh tụ phong trào Cần Vương tỉnh Bình Định. Địa điểm được chọn để xây lăng là một quả đồi cao thuộc thôn Hoà Sơn, xã Bình Hoà, ngay bên quốc lộ 19. Ngày 22 tháng 1 năm 1961, nhân dân Bình Khê kính cẩn làm lễ đưa hài cốt ông từ Phú Lạc về lăng.
Kiến trúc Mộ Mai Xuân Thưởng được thiết kế theo kiểu lăng, gồm hai phần lăng và mộ. Tuy là một kiến trúc mới, nhưng đường nét mang dáng dấp cổ kính. Bên ngoài có vòng thành bao bọc. Cỗng xây 4 trụ vuông, 2 trụ giữa cao, 2 trụ bên thấp. Sau cổng, thiết kế theo kiểu tam cấp, dốc dàn về phía lăng với 27 bậc, hai bên có bờ thành đắp nổi hình sống trâu. Qua tam cấp đến sân tiền sảnh chu vi 5mx8m có bờ lan can xung quanh. Từ sân tiền sảnh vào đến sân nền lăng, dật 4 cấp. Phía sau lăng là một bình phong dùng làm bàn thờ.
Nhà lăng được thiết kế theo kiểu 6 mái, bình đồ hình chữ nhật, cổng chính rộng 4m, trên đề 4 chữ Lăng Mai Xuân Thưởng. Mái lợp theo kiểu ngói Tây, khung đỡ bên trong hoàn toàn bằng gỗ. Nền lăng lát gạch Bát Tràng có tráng men màu đỏ và trắng. Giữa lăng là mộ, xây đá mài màu xanh, bình đồ chữ nhật, đỉnh vuốt xuôi như mái nhà. Trên mộ có bia đá ghi dòng chữ: “Đây, nơi yên nghỉ bên lòng người Việt yêu nước Nhà anh hùng Mai Xuân Thưởng“ Lưng tường hậu đặt sát mộ bia đá có khắc bài văn tế của Quách Tấn ca ngợi cuộc đời và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng.
Di tích Linh Đổng
Linh Đổng (nằm tại xã Bình Tường, huyện Tây Sơn ngày nay), xưa kia là chiến khu chính của nghĩa quân Cần Vương Mai Xuân Thưởng. Cơ quan chỉ huy toàn tỉnh của Bình Tây Nguyên soái đóng tại Lộc Đỗng, tức Đồng Hươu, còn cơ quan bí mật đóng trong núi Linh Đỗng (Đồng Le).
Linh Đổng còn có tên là Động Linh Phong, nằm phía tây Lộc Đổng, cách Hầm Hô chừng 4 cây số. Linh Đổng có hai hang, một trước, một sau. Cả hai đều ăn sâu vào núi. Hang trước không rộng lắm, chứa được vài chục người; phía trước có một ngọn núi đứng dựng như một bức bình phong; phía sau, chảy quanh co một dòng suối. Qua khỏi suối đến hang sau. Hang nầy rộng gấp 7-8 lần hang trước. Miệng hang rộng chừng vài thước, cao hơn 3 thước. Lòng hang mênh mông; ánh mặt trời lọt qua các kẽ đá toả ánh sáng lờ mờ. Trước cửa, cây cối mọc um tùm che khuất cả miệng hang. Mật khu Linh Đổng do Thống binh Nguyễn Hoá trấn giữ nên còn được gọi là Hang Thống Nguyễn.
Từ Linh Đổng có đường ra Lộc Đổng, mà cũng có đường sang Đồng Vụ (thôn Trinh Tương) là kho tích trữ lương thực của nghĩa quân gọi là Nam Trại. Không phải người quen đường, thuộc lối thì không thể tìm ra được hang Linh Đổng. Vì vậy, sau khi bị đại bại ở Bàu Sấu, nghĩa quân Cần Vương rút về Linh Đổng cố thủ. Nhưng vì thế giặc rất mạnh nên Mai Xuân Thương cùng các thuộc hạ tìm đường sang Phú Yên, giữa đường thì bị quân giặc phục kích bắt gọn.
Đồng Vụ, Đồng Hươu hiện đồng bào đang ở đông đúc. Còn Linh Đổng-Đồng Le sau khi phong trào Cần Vương bị dập tắt, nhân dân ít ai dâm vào, vì tiếng đồn nhiều cọp và rất linh thiêng.
Tuy không còn có dấu tích mật khu xưa, nhưng trong dân gian vẫn còn lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác mấy cau ca dao nói lên sự tưởng nhớ tấm gương anh hùng Mai Xuân Thưởng: “Ngó vô Linh Đổng mây mờ, Nhớ Mai Nguyên soái dựng cờ đánh Tây. Hầm Hô cữ nước còn đầy. Còn gương phấn dũng, còn ngày vinh quang”.
Di tích Nhà thờ Tăng Bạt Hổ
Tăng Bạt Hổ tên thật là Tăng Doãn Văn, cất tiếng khóc chào đời tại xóm Cửi, làng An Thường xưa có nghề dệt vải truyền thống (An Thường nay là một thôn của xã Ân Thạnh, huyện Hoài Ân).
Năm 1872, 14 tuổi, làm Cai cơ, Tăng Bạt Hổ đã tham gia phong trào chống Pháp do Tôn Thất Thuyết cầm đầu. Khi vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, từ 1885-1887, ông tích cực tham gia phong trào Cần Vương do Đào Doãn Địch và Mai Xuân Thưởng lãnh đạo. Phong trào Cần Vương Bình Định bị dập tắt, từ 1887-1906, ông tham gia Duy Tân hội và phong trào Đông Du do chí sĩ Phan Bội Châu khởi xướng (Xem vần D, mục Danh nhân Phong trào Cần Vương, tiểu mục Tăng Bạt Hổ).
Năm 1906, Tăng Bạt Hổ từ Nam kỳ ra Huế thì lâm bệnh nặng và tạ thế trên một chiếc thuyền ở trên sông Hương. Thi hài ông được chôn cất tại dốc Nam Giao (Huế).
Nhân dân Hoài Ân lập đền thờ Tăng Bạt Hổ tại quê nhà. Tại xóm Cửi, An Thường, họ Tăng chiếm số đông, vẫn còn một khu đất rộng khoảng 2.400 m2, nằm trước nhà Tăng Bạt Hổ xưa kia, cùng với những di tích gắn với tuổi thơ và những hoạt động cứu nước của ông. Sát khu vườn nầy, ở phía tây bắc, trước có một ngôi miếu cổ thờ thần, thường gọi là miếu An Hoà; hàng năm dân làng tổ chức cúng lễ rất long trọng. Cạnh miếu có một cây sộp cổ thụ, tương truyền Tăng Bạt Hổ có một khẩu súng lục tự tạo thường đem cất giấu dưới gốc cây nầy. Nhà thờ Tăng Bạt Hổ được xây dựng trong vườn.
Nay miếu An Hoà, cây sộp cổ thụ, nhà thờ đều không còn và cũng không để lại một dấu vết vật chất nào; khu vườn xưa đã biến thánh vườn trồng hoa màu và nhà ở của một số gia đình họ Tăng. Tuy vật đổi, sao dời, nhưng khuôn viên và nhà thờ Tăng Bạt Hổ xưa kia, vẫn mãi mãi là mảnh đất thiêng, không bao giờ phai mờ trong ký ức người dân An Thường cũng như nhân dân Hoài Ân, Bình Định.
Di tích Thứ Hương Sơn
Thứ Hương Sơn là căn cứ địa đánh Pháp của phong trào Cần Vương Mai Xuân Thưởng.
Hòn Hương Sơn, tục gọi là núi Thơm, nằm tựa sông Côn về phía bắc ngạn, giữa những cánh đồng rộng của các thôn Kiên Thạnh, Trường Định, Vân Trường thuộc huyện Bình Khê xưa. Hương Sơn là một hòn núi sỏi, thấp, cao khoảng 100m, gai rậm, cây thưa. Trên triền núi có nhiều nhà ở của dân Kiên Thạnh, có nhiều xoài tượng. Dưới chân núi, đoạn từ cuối Kiên Thạnh đầu Trường Định có một bàu nước rộng chừng vài mẫu ta gọi là Bàu Ưm, có rất nhiều ốc bươu ngon nổi tiếng. Tại một khúc eo nằm giữa núi, nghĩa quân Cần Vương đã xây đắp một dãy đồn luỹ phòng thủ gọi là Thứ Hương Sơn. Cử nhân Nguyễn Trọng Trì, đang làm quan triều Tự Đức, vì không cam chịu quốc nhục đã bỏ về nhà tham gia nghĩa quân chống Pháp, được Mai nguyên soái cử làm Hiệp Trấn Thứ Hương Sơn (Xem vần D, mục Danh nhân phong trào Cần Vương, tiểu mục Nguyễn Trọng Trì).Năm 1887, nghĩa quân Cần Vương bị thua nặng tại Bàu Sấu, Mai Xuân Thưởng bị giặc bắt, mật khu Linh Đỗng bị giặc chiếm. Thế cùng, Nguyễn Trọng Trì cùng nghĩa quân tìm cách trốn thoát. Sau khi đánh tan phong trào Cần Vương Bình Định, giặc Pháp cho phá huỷ tất cả đồn luỹ ở Thứ Hương Sơn và ở các căn cứ khác của nghĩa quân.
Trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, Thứ Hương Sơn là nơi hội họp, sinh hoạt chính trị của nhiều thế hệ thanh niên cách mạng của hai huyện Bình Khê và An Nhơn.
Hiện nay, tại Thứ Hương Sơn vẫn còn dấu hào luỹ nằm khuất lấp trong đám bìm lau, và một đống đá nằm trơ gan cùng tuế nguyệt. Trong dân gian Bình Định, nhất là hai huyện An Nhơn, Tây Sơn, vẫn còn lưu truyền mấy câu thơ có ý nghĩa sau đây: “Bình Tây dù chẳng thành công, Hương Sơn ghi dấu anh hùng nghìn thu...”
Di tích Tổng Dinh
Tổng Dinh là một căn cứ của phong trào Cần Vương Mai Xuân Thưởng đặt tại vùng rừng núi Kim Sơn (Hoài Ân), do Tăng Bạt Hổ trấn giữ nhằm bảo vệ mặt tây bắc tỉnh Bình Định.
Cuối năm 1886 đầu năm 1887, Nguyễn Thân đem quân bao vây, đánh chiếm đồn Lại Giang và phủ Hoài Nhơn. Nghĩa quân Cần Vương do Tăng Bạt Hổ chỉ huy chiến đấu rất kiên cường, nhưng vì thế yếu nên phải mở đường máu rút về căn cứ Tổng Dinh. Sau khi chiếm được phủ Hoài Nhơn, Nguyễn Thân cho quân bao vây căn cứ Tổng Dinh, nhưng chỉ chiếm được mấy ngọn đồi vòng ngoài. Tên bán nước liền cho rải thuốc súng và đổ dầu hoả xung quanh Tổng Dinh rồi nổi lửa đốt. Nghĩa quân không dập tắt được biển lửa, đành phải bỏ căn cứ rút về khu rừng phía nam Kim Sơn, tiếp tục chiến đấu.
Di tích Triều Nguyễn
Trên địa bàn tỉnh Bình Định còn nhiều di tích lịch sử-văn hoá Triều Nguyễn đang được bảo tồn.
Di tích Căn cứ Truông Mây
Căn cứ Truông Mây nay thuộc xóm 3, thôn Phú Thuận, xã Ân Đức, huyện Hoài Ân, cách huyện lỵ-thị trấn Tăng Bạt Hổ chừng 3 km. Truông Mây là một đoạn đường chạy giữa hòn Núi Một và sông Kim Sơn từ phía bắc thôn Phú Thuận đến phía nam thôn Vĩnh Hoà, xã Ân Đức. Xưa kia, đây là con đường độc đạo lên nguồn Kim Sơn. Bên sườn núi, mây mọc thành rừng, quang cảnh hoang vắng, đi lại rất khó khăn, nên mới có tên là Truông Mây. Các dấu tích về cuộc khởi nghĩa của Chàng Lía nay còn lại đều tập trung ở dưới chân và bên sườn hòn Núi Một.
Mộ Ông Lía là di tích gắn liền với truyền thuyết dân gian cho rằng sau khi Lia tự vẫn, với lòng ngưỡng mộ và ghi nhớ công lao của vị anh hùng nông dân, dân làng đã xây dựng một ngôi mộ khang trang. Ngôi Mộ Ông Lía có quy mô khá lớn, gồm hai lớp tường thành: thành ngoại và thành nội. Hai lớp tường có hình dáng giống nhau. Mặt trước xây vuông quay về hướng đông, mặt sau xây hình bán nguyệt dựa lưng vào núi. Lớp thành ngoại có chiều dài 30m, chiều rộng 25m, xây bằng đá núi xếp chồng lên nhau với nhiều kích cỡ khác nhau, cao 1,4m, rộng 1,5m; phía trước có cửa ra vào rộng 2m. Lớp thành nội nằm cân đối trong lớp thành ngoại, mặt trước cũng có cửa ra vào. Thành nội dài 7m, rộng 5m, cao 1m, xây bằng 3 lớp đá ong được cắt vuông vức với kích thước 0,5m x 0,3m x 0,2m. Trước kia, giữa thành có một tấm bia đá khắc chữ Hán, nhưng đã bị bọn đào trộm vàng phá huỷ.
Bên ngoài ngôi mộ, phía nam có một phế tích kiến trúc khác, hình vuông, một lớp tường thành, mặt quay hướng đông, dài 6m, rộng 4m, dày 1,5m. Tương truyền đây là nền doanh trại nghĩa quân.
Di tích Bờ luỹ ở ngay phía sau ngôi mộ. Hiện còn dấu tích một bờ luỹ xây bằng đá, dài 50m, rộng 0,8m, chạy dài dẫn đến sườn núi. Hai bên bờ luỹ, chạy theo sườn núi, rải rác còn có những bờ kè xây bằng đá, cao 1m, dài 3m. Nhân dân nói rằng trước đây luỹ rất đồ sộ, nhưng đã bị nhân dân phá dỡ để lấy đá về xây nhà.
Di tích Miếu Mục đồng nằm ở phía bắc ngôi mộ. Miếu được xây bằng đá núi xếp chồng lên nhau, dài 12m, rộng 10m; tường cao 1-1,5m. Miếu quay hướng đông, có hai lối vào hai bên, vách phía tây dựa vào núi. Dân gian truyền rằng đây là vị trí trại chỉ huy, nơi ở của các thủ lĩnh nghĩa quân xưa kia, nhưng không hiểu tại sao lại có tên là miếu Mục đồng.
Di tích Truông Mây hôm nay không còn cảnh hoang dã như xưa, vì đã có nhiều người dân lên đây xây dựng nhà cửa, làm ăn, sinh sống. Nấm mộ người thủ lĩnh nghĩa quân năm xưa vẫn còn nguyên vẹn, nằm trong vườn cây của các hộ dân. Thỉnh thoảng có người đến mộ thắp hương bày tỏ lòng tôn kính, thương nhớ vị anh hùng áo vải, chân đất năm xưa.
Ngoài ra, tương truyền tại huyện Tây Sơn (Bình Khê cũ), cũng có Di tích Chàng Lía. Đó là Thành Uất Trì, nơi Chàng Lía sử dụng làm sơn trại trong buổi đầu khởi nghĩa; Mả Mẹ Chàng Lía, đó là 2 tảng đá vuông vức nằm chồng lên nhau, bên cạnh một vùng đá hình chữ nhật nằm trên đỉnh Hòn Sưng, cao chừng trên 420 mét, thuộc xã Bình Thành. Tại huyện Phù Cát cũng có Hang Chàng Lía ở Núi Bà.
Di tích Đền thờ Đào Duy Từ
Di tích Đền thờ Đào Duy Từ, một người có nhiìều công lao đối với nước, với dân thời Chúa Nguyễn, hiện tại thuộc thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh, huyện Hoài Nhơn.
Đào Duy Từ là một nhà chính trị có tầm nhìn xa, trông rộng, một nhà quân sự tài ba cả về lý luận và thực tiễn, một nhà thơ xuất sắc. Sử nhà Nguyễn đánh giá ông rất cao: “Duy Từ có tài lược văn võ, phàm đã mưu tính, trù hoạch gì, hễ làm thì trúng thời cơ, giúp việc nước có 8 năm mà cơ nghiệp rỡ ràng, đứng hàng đầu công thần khai quốc”. (Xem vần D, mục Danh nhân thời chúa Nguyễn, tiểu mục Đào Duy Từ)
Đào Duy Từ quê làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tỉnh Gia (nay thuộc xã Nguyên Bình, huyện Tĩnh Gia) tỉnh Thanh Hoá. Nhưng nơi Đào Duy Từ bắt đầu sự nghiệp của mình để rồi trở thành một nhân vật nổi tiếng, lại là đất Tùng Châu (nay thuộc xã Hoài Thanh, oài Thanh,HoàiHhuyện Hoài Nhơn). Tùng Châu là nơi đã hun đúc thêm tài năng và ý chí của Đào Duy Từ, giúp ông làm nên nghiệp lớn. Nên sau khi ông qua đời, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho đưa thi hài ông về mai táng và lập đền thờ tại đây.
Nhà thờ Đào Duy Từ nằm trong khuôn viên một thửa đất hình chữ T có diện tích gần 1.620 m2, được xây dựng vào năm Tự Đức thứ 12 (1859), đã trải qua nhiều lần trùng tu. Nhà thờ có tam quan cao khoảng 6m, hai mái lợp ngói âm dương, trên có 4 từ lớn: “Quốc công từ môn” (cổng đền thờ Quốc công) ghép bằng mảnh sứ; hai bên đắp phù điêu hình hai con dơi cách điệu, đường nét khá sắc sảo; 4 trụ góc có hình rồng uốn lượn. Qua tam quan tới sân nhỏ hình chữ nhật, kích thước 6,9m x 7,8m. Tiếp đến là bình phong đắp hình long mã lưng có hà đồ nổi trên mặt nước, mặt sau đề 4 chữ: “Bách thế bất di”(trăm đời không thay đổi). Ở hai bên là hai câu đối nhắc đến lai lịch Đào Duy Từ: “Ngọc sơn chung tú Bắc, Bồng lãnh hiển danh Nam”. Cách đều bình phong 2,6m về hai bên có hai cột trụ cao 4m, trên đỉnh đắp tượng hạc đứng chầu đối xứng. Phia sau là sân lớn hình chữ nhật với kích thước 14m x15,4m. Qua sân lớn đến nhà thờ được thiết kế kiểu nhà lá mái. Khám thờ bên trong có bài vị của Đào Tá Hán, Nguyễn Thị Minh (thân phụ và thân mẫu Đào Duy Từ), bài vị của Đào Duy Từ và vợ. Trên bài vị Đào Duy Từ có dòng chữ: “Thuỷ tổ khảo Nội tán Lộc Khê hầu Đào công, Khai quốc công thần, Đặc tiến Vĩnh Lộc đại phu, Đông các Đại học sĩ, Thái sư, nhưng thuỷ Trung Lương, phong Hoàng quốc công thần chủ”. Trong nhà thờ còn có đôi câu đối, nhưng nay đã sứt mòn, mờ không đọc được.
Hiện nay, trên vùng đất Tùng Châu xưa vẫn còn một số di tích liên quan đến Đào Duy Từ.
Di tích Lăng mộ Đào Duy Từ nay thuộc địa phận thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn. Năm Gia Long thứ 4, 1805, nhà Nguyễn xét công trạng các khai quốc công thần, Đào Duy Từ được xếp hàng đầu, được cấp 15 mẫu tự điền và 6 người trông coi phần mộ. Đến năm Minh Mệnh 17, 1836, Triều đình cho sửa chữa Lăng mộ Đào Duy Từ. Trải qua thời gian và chiến tranh, Lăng mộ ông bị hư hại nhiều. Lần sửa sang gần đây nhất là năm 1999.
Di tích Nhà thờ Đào Duy Từ tại thôn Cự Tài, xã Hoài Phú, huyện Hoài Nhơn. Sách Đại Nam nhất thống chí và Đồng Khánh dư địa chí đều chép rằng đền thờ Hoàng Quốc công Đào Duy Từ ở làng Cự Tài, huyện Bồng Sơn (nay là huyện Hoài Nhơn). Nhà thờ được lập vào năm Tự Đức thứ 32, 1880 và được trùng tu lần thứ nhất vào năm Khải Định thứ 1, 1861. Trong chiến tranh, nhà thờ nầy đã bị sụp đổ. Hiện chỉ còn lại hai trụ cổng và tấm đại tự đề: “Quốc công từ môn”. Trong đền, trên khám thờ cũng có bài vị Đào Duy Từ giống như ở Ngọc Sơn.
Ngoài ra, ở thôn Ngọc Sơn còn có Lăng Đào Tá Hán. Truyền rằng khi đã làm quan ở Thuận Hoá, Đào Duy Từ đã cho xây lăng mộ phụ thân tại làng Ngọc Sơn. Di tích lăng mộ hiện nằm trên một quả đồi rộng. Cũng tại Ngọc Sơn hiện có một ngôi Chùa nhỏ, tương truyền là nơi đi tu của bà vợ cả họ Cao.
Những di tích kể trên, theo đơn vị hành chánh hiện nay, nằm ở các thôn, xã khác nhau (Lăng mộ Đào Duy Từ tại thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, Nhà thờ và Lăng mộ Đào Tá Hán tại thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh Tây và Đền thờ tại thôn Cự tài, xã Hoài Phú), nhưng tất cả đều vốn thuộc vùng đất của trại Tùng Châu xưa. Đây là những xã, thôn mà hiện nay con cháu Đào Duy Từ còn rất đông đảo, đặc biệt là ở thôn Cự Tài.
Hằng năm, vào ngày giỗ Đào Duy Từ, 17 tháng 10 âm lịch, con cháu họ Đào tổ chức cúng tế rất long trọng. Theo quy ước, cứ vào dịp nầy, con cháu dòng họ đều nghỉ việc đồng áng trong 3 ngày. Sau khi làm lễ thắp hương tại Lăng mộ Đào Duy Từ (thôn Phụng Du), con cháu về họp mặt và dâng hương tại Đền thờ cha mẹ và vợ chồng Đào Duy Từ ở thôn Ngọc Sơn, rồi sau đó mới trở về tế lễ chính thức tại Đền thờ Đào Duy Từ ở thôn Cự Tài. Ngoài ngày giỗ chính - 17/10 âm lịch - hằng năm, tại các di tích trên còn có 5 ngày lễ phụ vào dịp đông chí, chạp mả, thanh minh, trung thu và tết nguyên đán. Duy bà vợ cả của Đào Duy Từ còn có ngày giỗ riêng vào ngày 12 tháng 2 âm lịch tại chùa bà đã tu ở thôn Tài Lương.
Di tích Đình làng Vinh Thạnh
Đình làng Vinh Thạnh nằm tại xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước là nơi nhân dân địa phương thờ cha con Đào Tấn như những vị Thành hoàng.
Đình làng Vinh Thạnh là ngôi đình người Việt duy nhất hiện nay còn lại trên đất Bình Định. Vinh Thạnh là làng duy nhất trong tỉnh đến nay vẫn giữ được cổng làng với bốn chữ Hán: “Vinh Thạnh lý môn” (Cổng làng Vinh Thạnh). Di tích ngôi đình hiện tại là ngôi đình được xây dựng lại vào năm 1948, còn ngôi đình xưa, theo dân gian kể lại, có quy mô lớn hơn, kiến trúc theo kiểu cổ đã bị phá huỷ trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp.
Làng Vinh Thạnh xưa có 4 xóm: Miếu Đông, Miếu Tây, Miếu Nam, Miếu Bắc (sau đổi là Vĩnh Đông, Vĩnh Tây, Vĩnh Nam, Vĩnh Bắc). Đình Vinh Thạnh nguyên thuỷ nằm ở xóm Miễu Bắc, đến năm 1922 được dời đến xây dựng tại vị trí hiện nay.
Đình Vinh Thạnh xưa kia gồm 10 gian nhà gỗ lợp ngói vẩy, khoảng năm 1938-1942, lợp lại bằng ngói âm dương. Đình bị phá hoại trong kháng chiến chống Pháp. Năm 1966, nhân dân địa phương đóng góp xây lại đình với quy mô và kiến trúc như ngày nay.
Từ ngoài vào trong, phần kiến trúc cũ còn lại chân đế, hai trụ cổng và cột cờ xây bằng đá ong, vôi, cát. Trụ cổng có bình đồ hình vuông (1,5m x1,5m), phần trên đã sụp đổ, chỉ còn lại chân đế cao khoảng 0,5m; khoảng cách giữa hai trụ là 8m. Cột cờ nằm chính giữa, hơi lùi vào bên trong trụ ngõ. Qua khỏi cổng ngõ là tấm bình phong xây gạch và xi măng, mặt trước trang trí đắp nổi ghép mảnh sứ hình long mã hà đồ (nhiều chỗ bị bong rơi), mặt sau để trơn.
Ngôi đình mới, dài 12m, rộng 4m, được kiến trúc trên bình đồ hình chữ nhật, phía trước trổ tam quan trông ra đường liên xã, các mặt khác tiếp giáp nhà dân. Hai đầu đình đều xây trụ hình vuông, trên có đôi câu đối; hai trụ giữa bo tròn, chạm nổi hình rồng quấn quanh, đầu chúc xuống, đuôi vểnh lên; bên trên là một dãy lan can được thiết kế theo kiểu ô hộc. Chính giữa là hình cuốn thư đắp nổi đề ba chữ “Vinh Thạnh Đình”. Đình có hai lớp mái, bốn góc uốn cong, cuối góc mái là những lan can đằng, giả rồng. Đỉnh mái, bên trên thể hiện hình lưỡng long chầu nguyệt (các chi tiết nầy đã bị vỡ).
Phía trong đình, hai bên cửa chính là phù điêu đắp nổi tượng ông Thiện, ông Ác. Trong đình, sát tường, bày ba bục thờ. Bục giữa đề chữ Thần, một bên đặt thần vị Đào Đức Ngạc, cha Đào Tấn, một bên đặt thần vị Đào Tấn. Thần vị Đào Tấn là một tấm bia đá được lập năm Duy Tân thứ 2, Mậu Thân-1908, một năm sau khi ông qua đời. Nguyên văn chữ Hán như sau: “Duy Tân nhị niên, Mậu Thân nhị nguyệt cát nhật, Hoàng triều cáo thụ Vĩnh Lộc đại phu Trụ quốc Thái tử Thiếu bảo Hiệp biện Đại Học sĩ, lãnh Công bộ Thượng thư, sung Cơ Mật viện đại thần Vinh phong tử tước trí chính Đào công huý Văn thần vị. Bản thông phụng tự”. Như vậy sau ngày mất, Đào Tấn được tôn vinh như một vị thần làng, được cả làng thờ cúng.
Tại làng Vinh Thạnh, ngoài đình làng, tại nhà Đào Tấn, con cháu cũng lập miếu thờ ông, dân làng cũng lập đền thờ riêng, trên đề 4 chữ: “Đào công bảo từ”.
Hằng năm, đến ngày giỗ Đào Tấn, con cháu, họ tộc, dân làng cử hành tế lễ rất long trọng. Tại đình làng, thường tổ chức hát bộ, diễn lại các vở tuồng của Đào Tấn, có khi kéo dài vài ba, đêm, thu hút không chỉ dân sở tại mà còn có dân nhiều làng khác ở trong vùng.
Thực hiện tiêu thổ kháng chiến, miếu thờ, đền thờ Đào Tấn đã bị phá huỷ, duy chỉ còn đình làng, nhưng nhiều đồ thờ đã bị thất lạc.ai đầu đình đều xây trụ hình vuông, trên đề đôi câu đối, hâi trụ gtiữa bo tròn, chạm nổi hình rồng quấn quanh, đầu chúc xuống, đuôi vểnh lên; bên trên là một dãy lan can được thiết kế theo kiểu ô hộc.Chính giuữa là hình cuốn thư đắp nổi ba chữ:” Vĩnh Thạnh đình “. Duy tại từ đường họ Đào ở thôn Vinh Thạnh vẫn còn giữ được nguyên vẹn 18 sắc phong của Đào Tấn vào các năm Tự Đức 24 (1871), 27 (1874), 28 (1875), 29 (1876), 31 (1878), 33 (1880), 35 (1882), 36 (1883); Đồng Khánh 2 (1887), 3 (1888); Thành Thái 1 (1884), 6 (1894), 8 (1896), 9 (1897), 10 (1898), 11 (1899), 14 (1902).
Nếu đình làng Vinh Thạnh được tu bổ, từ đường họ Đào được trùng tu, Học Bộ đình được dựng lại, sẽ cùng lăng mộ Đào Tấn tạo thành một quần thể di tích lịch sử-văn hoá hấp dẫn du khách đam mê nghệ thuật hát Bội Bình Định.
Di tích Huyện đường Bình Khê
Huyện đường Bình Khê xưa kia là nơi sống và làm việc của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Huy, Tri huyện Bình Khê, thân phụ Bác Hồ, là nơi người thanh niên yêu nước Nguyễn Tât Thành đã đến thăm cha trước khi Người bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước.
Huyện đường Bình Khê được dựng đặt từ năm Đồng Khánh thứ ba, năm 1888. Bình Khê vốn là một phần của huyện Tuy Viễn, phủ An Nhơn, bao gồm 4 tổng: Vĩnh Thạnh, Phú Phong, Thuận Truyền và Trường Định. Thành lập huyện mới, ắt phải xây huyện đường. Địa điểm được chọn đặt huyện đường Bình Khê là làng Đồng Phó, nay là thôn Thượng Giang, xã Tây Giang, huyện Tây Sơn.
Huyện đường thuở ấy dài khoảng 60 m, mặt hướng về phía đông, trông ra dòng sông Côn. Công đường kiến trúc theo kiểu chữ “môn”, dãy chính là nơi Tri huyện làm việc, hai dãy hai bên là nơi làm việc của Lại mục, Thừa phái và Lệ mục. Phía sau công đường có nhà bông là nơi Tri huyện ăn ở, nghỉ ngơi ngoài giờ làm việc; phía sau nữa là nhà tạm giữ thường phạm.
Các dãy nhà công đường kiến trúc theo kiểu nhà lá mái 3 gian, 2 chái, khung gỗ chắc chắn, vách tường bằng đất tô trát ngay thẳng, mái nhà lợp tranh, cửa gỗ đóng kiểu bàn pha, nền nhà đắp cao, xung quanh kè đá, lát gạch thường. Lối vào Huyện đường ở phía đông từ bến đò đi lên, cổng ngõ bằng gỗ, hàng rào bao quanh là cây xanh. Từ cổng vào sâu hai bên có hai cây vông đồng tạo bóng mát. Trong khuôn viên Huyện đường còn có khu vực trồng cây cảnh, trông rau để quan và lính lệ thưởng ngoạn, chăm sóc lúc rảnh rỗi.
Khuôn viên Huyện đường xưa là một khu đất hình vuông rộng chừng 900 m2, phía đông giáp sông Côn, phía tây và tây bắc giáp thổ cư, phía nam nhìn ra quốc lộ 19.
Đến năm Bảo Đại thứ 4, năm 1929, lỵ sở Bình Khê dời xuống Gò Sặt thuộc thôn Trinh Tường cũ, rồi đến năm Bảo Đại thứ 17 (1942), lại dời xuống Vườn Quận (Phú Phong bây giờ).
Năm 1909, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Huy (tên cũ là Nguyễn Sinh Sắc), thân phụ Bác Hồ, được bổ nhiệm làm Tri huyện Bình Khê, đã từng sống và làm việc tại Huyện đường Bình Khê. Thời gian cụ làm Tri huyện Bình Khê không lâu, chỉ hơn 200 ngày (từ tháng 7.1909 đến tháng 1.1910) nhưng đã để lại trong lòng nhân dân Bình Khê đương thời và sau này những tình cảm hết sức đẹp đẽ về một vị quan thanh liêm, chính trực, yêu nước, thương dân, sống thanh bạch, giản dị.
Trên đường từ Huế qua các tỉnh miền Trung, rồi vào Nam xuống tàu ra đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tới Bình Định ở lại đây một thời gian ngắn và đã đến Huyện đường Bình Khê thăm cha. Chính tại nơi đây, bao trăn trở trước vận mệnh dân tộc, nỗi đau đáu mong muốn tìm ra con đường cứu nước, cứu dân của người thanh niên trẻ tuổi Nguyễn Tất Thành đã được người cha thân yêu chia sẻ, khích lệ, động viên và tiếp thêm nghị lực.
Di tích Huyện đường Bình Khê, nơi Bác Hồ gặp cha lần cuối trước khi Người vào Nam xuống tàu bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, mãi mãi là niềm tự hào và vinh dự lớn lao của nhân dân huyện Tây Sơn nói riêng và nhân dân tỉnh Bình Định nói chung.
Di tích Lăng Võ Tánh
Lăng nằm tại thành Đồ Bàn cũ, trên địa phận thôn Xuân An, xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn. Đó là nơi Võ Tánh cùng Ngô Tùng Châu tuẫn tiết.
Năm 1801, quân Tây Sơn do Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng chỉ huy vây hãm thành Bình Định. Trong tình thế vô cùng nguy khốn, không thể kháng cự nổi, Ngô Tùng Châu uốn thuôc độc tự tử, Võ Tánh lên giàn hoả thiêu tại lầu Bát Giác trong thành Hoàng Đế (do vua Thái Đức - Nguyễn Nhạc dựng). Tám ngàn quân Nguyễn hạ khí giới, mở cửa thành đầu hàng. Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, đại lượng tha chết cho quân Nguyễn, và lấy đại lễ chôn cất Võ Tánh và Ngô Tùng Châu rất chu đáo. Trần Quang Diệu cảm khái khắc hai chữ “Song Trung” vào bia đá dựng trước mộ hai người.
Sau khi lên làm vua, Gia Long truy phong Võ Tánh là Hoài Quốc công, Ngô Tùng Châu là Hoà Quận công. Năm 1813, Gia Long hạ chỉ dời thành Bình Định (vốn là thành Hoàng Đế được đổi tên), cho cải táng và xây mộ Võ Tánh trên nền Bát Giác lầu, thành Hoàng Đế; trước mộ dựng một ngôi lầu bát giác gọi là “Bát Giác lầu từ”. Đến đời Tự Đức, Bát Giác lầu từ đổi tên là Đền Chiêu Trung. Cả mộ lẫn đền được gọi chung là Lăng Võ Tánh (còn thi hài Ngô Tùng Châu thì được gia đình đưa về an táng tại làng Thái Định, huyện Phù Cát).
Trước đền có khắc đôi câu đối chữ Nôm, trích trong bài văn tế của Đặng Đức Siêu: “Sửa mũ áo, lạy về Bắc khuyết, ngọn lửa hồng mát mẻ tấm trung can; Chỉ nước non, giã với cô thành, chén thuốc độc ngọt ngon mùi chính khí”. Chung quanh đền và lăng có thành cao bao bọc. Trong thành trồng xoài bạt ngàn..
Đến triều Bảo Đại (1924-1945), đền cũ bị triệt phá, thay vì là một đền mới xây theo kiểu kiến trúc tân thời, trông khang trang nhưng vẫn giữ được vẻ cổ kính. Năm 1947, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, đền bị phá huỷ. Hiện nay chỉ còn phần mộ của Võ Tánh đắp xi măng, có một tiểu đình hình bát giác (tượng trưng cho lầu Bát Giác ngày xưa) xây gạch, và cửa tam quan gồm 4 trụ 3 biểu bằng vôi.
Di tích Trường luỹ Hoài Nhơn-An Lão
Trên địa bàn tỉnh Bình Định hiện còn dấu vết một luỹ dài khoảng 300 km, bắt đầu từ huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi) vào La Vuông (xã Hoài Sơn, huyện Hoài Nhơn) chạy xuống An Hưng, qua thị trấn An Lão và xã An Tân (huyện An Lão). Luỹ do Lê Văn Duyệt, Tổng trấn phương Nam, triều Gia Long xây năm 1819. Luỹ đắp bằng đất và đá, ở những địa hình bằng phẳng thì chủ yếu đắp bằng đất, vùng có độ dốc trung bình và sườn núi thì cốt luỹ đắp bằng đất, bên ngoài ốp đá để chống xói mòn, nơi có độ dốc cao thì đắp toàn bằng đá.
Luỹ được xây dung theo tuyến đường thiên lý bắc-nam xưa kia nối từ Kinh đô Huế với các tỉnh phương Nam, nhân dân địa phương gọi là “ đường cái quan thượng ”. Sách Đại Nam thực lục chép rằng: “Dọc theo luỹ có tới 115 đồn, mỗi đồn lại có một tốp 10 lính canh gác“.
Di tích Mộ Đào Tấn
Mộ Đào Tấn nằm tại núi Hoàng Mai (còn gọi là núi Đá Vàng, Mai Sơn) thuộc thôn Hoàng Mai, xã Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước. Đào Tấn nổi tiếng và được nhân dân Bình Định kính trọng, tôn vinh không phải vì ông làm quan to dưới triều Nguyễn mà chủ yếu là vì ông là một nhà thơ, một nhà soạn tuồng xuất chúng.
Đào Tấn sinh năm 1845, quê làng Vĩnh Thạnh, nay thuộc xã Phước Lộc huyện Tuy Phước. Đào Tấn đỗ cử nhân, được bổ làm Tri phủ, Phủ doãn. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, phong trào chống Pháp do Văn thân lãnh đạo dâng lên mạnh mẽ khắp trong Nam, ngoài Bắc, nhưng Đào Tấn lại đứng ngoài cuộc, xin về hưu, lên chùa Linh Phong ở ẩn. Đồng Khánh lên ngôi, Đào Tấn được bổ nhiệm làm Tổng đốc rồi Thượng thư. Năm 1904, do mâu thuẫn với tên bán nước Nguyễn Thân, Đào Tấn bị cách chức, trở về quê nhà miệt mài sáng tác thơ văn và soạn tuồng hát Bội.
Đào Tấn qua đời năm 1907. Thể theo ý nguyện của ông, người nhà đã an táng thi hài ông tại núi Hoàng Mai (xã Phước Nghĩa), nằm cách nhà ông ở làng Vĩnh Thạnh (xã Phước Lộc) chưa tới 2 km. Dưới chân núi có con sông Tranh, một nhánh của sông Côn từ tháp Bánh It chảy ngang qua và đổ ra đầm Thị Nại. Thế mộ nằm vào điểm uốn của sông Tranh, là nơi tụ thuỷ rất tốt. Mộ xây hình chữ nhật, dài 3m, rộng 2m, có bờ xung quanh cao 0,8m. Phía trước mộ có bia ghi ngày lập mộ, trước nữa là bức bình phong làm tiền án. Phía ngoài mộ là một vòng tường bao dài 10m, rộng 6m; trước có trụ cổng đề đôi câu đối của Hà Đình tướng công, lưng có bình phong kiểu cuốn thư; hai bên cổng và hai bên cuốn thư là hình bốn con sấu được tạo dáng đuôi vểnh lên trên.
Nơi đây, xưa kia là cả một rừng hoa mai vàng, dưới là dòng sông Tranh quanh năm nước chảy, xa xa là bốn ngọn tháp Bánh It. Phong cảnh ấy, kiến trúc mộ phần sơn thuỷ ấy thật hữu tình. Sau đợt trùng tu năm 1994, ngôi mộ trở nên bề thế và vững chãi hơn.
Trước đây việc trông coi ngôi mộ hoàn toàn do con cháu trong dòng họ đảm nhiệm. Nay các em học sinh trường Tiểu học và Trung học cơ sở Phước Nghĩa tự nguyện nhận trách nhiệm bảo vệ, tiếp tục tôn tạo, trồng thêm nhiều cây cảnh làm cho khu di tích ngày càng xanh tươi.
Di tích Nhà thầy giáo Phạm Ngọc Thọ
Phạm Ngọc Thọ là thầy dạy thêm tiếng Pháp cho Nguyễn Tất Thành trước khi Người lên đường vào Nam.
Có khả năng là Alliance Francaise (Pháp truyền học hội) tại Quy Nhơn là nơi gia đình giáo học Phạm Ngọc Thọ ở từ 1905-1910. Từ 1909-1910, khi dừng chân tại Bình Định, Nguyễn Tất Thành đã trú ngụ tại nhà ông giáo Thọ để học thêm tiếng Pháp.
Vị trí Alliance Francaise Quy Nhơn trước kia, nay nằm trong khuôn viên khu tập thể cán bô, nắm phía đông đường Trần Bình Trọng, TP Quy Nhơn.
Di tích Trường Pháp Việt
Trường Pháp Việt (Escole Franco-Annamite) là nơi Nguyễn Tất Thành học thêm tiếng Pháp trong thời gian Người ở Bình Định.
Xưa kia, Trường Pháp Việt được gọi là Trường Sở Cò, vì ở gần cơ quan Cảnh sát Pháp (Gendarmerie). Cổng trường ghi mấy chữ quốc ngữ “Pháp-Việt trường”. Trường xây gạch, lợp ngói vảy nhỏ. Trường có các gian mở lớp đồng ấu (enfantin), dự bị (préparatoire) và sơ dẳng (élémentaire). Trường nằm cạnh bờ đầm, sau toà Giám Mục, trước mặt là trạm Khí tượng (Metéorologie) và sân vận động, nay thuộc khu vực nằm phía bắc đường Bạch Đằng, bên trái đường Trần Bình Trọng.
Đây là trường công đầu tiên do Pháp mở tại tỉnh Bình Định trong thập kỷ đầu thế kỷ XX.
Di tích Trường thi Bình Định
Sau khi lên ngôi vua, Gia Long bãi bỏ chữ Nôm mà nhà Lê, nhà Hồ, nhà Tây Sơn đã dùng làm văn tự riêng cho nước ta thời bấy giờ, và quay lại dùng chữ Hán làm quốc tự. Tỉnh Bình Định thời nhà Nguyễn có 6 trường học: một trường tỉnh, hai trường phủ và 3 trường huyện.
Trước năm 1851, học trò tỉnh Bình Định cũng như các tỉnh trong vùng, muốn thi Hương, phải mang lều chõng, lặn lội ra Thừa Thiên. Mãi đến năm Tự Đức thứ 4 (1851), Trường Thi Bình Định được lập ra dành cho sĩ tử từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận.
Trường thi nằm tại làng Hoà Nghi, huyện Tuy Viễn, bên kia sông Côn, phía tây nam thành Bình Định, xây bằng đá ong. Trương có chu vi 193 trượng (gần 1 cây số), bờ tường cao 4 thước, 5 tấc (gần 2m).
Khuôn viên Trường thi hình chữ nhật, bề 66 tầm, bề 107 tầm (tương đương 174mx 282m). Phần trước có diện tích nhỏ hơn phần sau, là nơi sĩ tử dựng lều ngồi thi. Thập đạo (đường chữ thập) phân phần trước làm 4 vi, mỗi vi đều có hàng rào bao bọc. Vi bên trái là vi Giáp, vi bên phải là vi Ât; tương ứng phía sau là hai vi Tả, Hữu. Mỗi vi có 2 cổng, gọi theo thứ tự: Giáp nhất, Giáp nhị, Ât nhất, Ât nhị, Tả nhất, Tả nhị, Hữu nhất, Hữu nhị. Thí sinh vào xong thì đóng tất cả các cổng nầy lại. Khi nộp quyển, có cổng vào Thập Đạo đường, nộp xong, ra về bằng cổng chính. Thập Đạo đường dựng ở giữa Thập đạo.
Phần sau của Trường thi rộng hơn phần trước và chia làm hai phần: Ngoại trường và Nội trường. Ngoại trường dựng Thí viện ở giữa là nơi hội họp, chấm bài. Nhà Chánh Chủ khảo bên trái, nhà Phó Chủ khảo bên phải, tiếp đến là hai dãy nhà của các quan Phân khảo. Giúp việc cho các vị Chánh, Phó Chủ khảo và Phân khảo có các Lại Điển ở Lại phòng phía sau. Quan Khoa Đạo và đội Thể Sát ở phía tiếp theo. Một khoảnh đất rào kín bốn phía, nằm sau Ngoại trường, chỉ chừa một cổng nhỏ dẫn đến Thí viện. Trên khoảnh đất này dựng Đề Điệu công sảnh là nơi giữ quyển thi của thí sinh, đồng thờìi là nơi làm việc của các quan Đề Điệu; bên trái có nhà quan Chánh Đề Điệu, bên phải là nhà quan Phó Đề Điệu, sau lưng là dãy Lại phòng dành cho các Lại Điển giúp việc. Nối tiếp phía sau Đề Điệu công sảnh là phần Nội trường. Giám viện dựng giữa Nội trường dùng làm nơi hội họp các quan Sơ khảo, Phúc khảo và Giám Khảo; nhà quan Phúc khảo bên trái, nhà quan Sơ Khảo bên phải, nhà quan Giám Khảo kế cạnh. Nhà quan Khoa Đạo và đội Mật Sát ở sau những dãy nhà nầy.
Trường thi được rào chắn bao bọc nghiêm cẩn cả tổng thể bên ngoài lẫn bên trong, ngăn cách Nội trường, Ngoại trường, các vi, công sảnh. Nhà ở của các quan cũng được rào kín ngăn cách.
Năm Tự Đức 33, 1880, nhà vua cho sửa cổng Trường thi Bình Định, nâng cao từ 3 thước lên 4 thước, 2 tấc (từ 1,3m lên 2m), đóng kín bằng ván; nâng cao lan can từ 2m lên 3,5m để chống leo trèo. Các cổng đến Đề Điệu công sảnh đều có cửa, nhưng đóng mở bất tiện nên đã được cải tiến bằng cách mở một ô nhỏ phía trên cao, một bề 4,6 tấc, một bề 2,5 tấc, vừa đủ kích cỡ đưa quyển thi ra vào, có khoá đóng mở cẩn thận. Để tránh mọi sự giao thiệp với bên ngoài trong lúc coi thi và chấm thi, người ta cho xây “giả hải” mỗi bề 4 thước (1,6m), sâu 5 thước (2m), đổ đầy nước để thầy trò cùng dùng, không cho người ngoài gánh nước vào.
Trước khi thi Hương, thí sinh phải trải qua một kỳ hạch gọi là khảo khoá, do Giáo thụ Huấn đạo địa phương duyệt chấm (nơi không có vị nầy thi quan coi việc học làm thay). Đổ cao nhất của kỳ sát hạch nầy gọi là đầu xứ. Qua khỏi kỳ khảo khoá, sĩ tử nộp quyển cho quan Đốc học chuẩn bị kỳ thi Hương 3 năm mở một lần. Thí sinh phải đăng ký trước kỳ thi 4 tháng tại Lý trưởng địa phương mình cư trú. Triều đình quy định rất nghiêm ngặt các trường hợp không được thi Hương, trong đó có nhiều điều bất hợp lý như trưởng nam đang chịu tang cha mẹ hay ông, bà nội; người tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp; người đang theo đạo Thiên Chúa v.v...
Thi Hương là để chọn người đi thi Hội rồi thi Đình. Đỗ đầu thi Hương là giải nguyên (thủ khoa), thứ nhì là á nguyên (á khoa); hạng trên là cử nhân, hạng dưới là tú tài.
Thi Hương, thời Gia Long chia thành bốn trường với một kỳ phúc hạch. Bốn trường gồm trường nhất thi Kinh nghĩa; trường nhì thi Chế biểu; trường ba thi thơ Đường, phú; trường tư thi Văn sách. Thời Minh Mạng,1834, đổi thành ba trường; đến thời Tự Đức, 1851, đổi lại bốn trường, nhưng đến 1858 thì đổi lại ba trường. Đến đời Duy Tân, từ 1907, thay đổi nội dung thi: trường nhất thi Văn sách; trường nhì thi Luật, dụ, chiếu, biểu; trường ba thi luận Việt văn và luận Hán văn, phúc hạch thi Văn sách; như vậy là không còn thi Kinh nghĩa và thơ, phú. Nhưng từ 1912 trở đi thì trường nhất thi 4 bài Văn sách; trường nhì thi 2 bài luận Việt văn; trường ba, thi một bài tiếng Pháp, lúc đầu không bắt buộc, nhưng đến năm 1915 thì bắt buộc. Thời Gia Long cho thi từng trường, trúng cách mới cho thi trường tiếp theo; thời Minh Mạng cho thi tất cả các trường, rồi dựa trên các quyển thi để chấm; đến thời Tự Đức lại cho thi trúng cách ở trường nầy mới tiếp tục dự thi ở trường kia.
Các quyển thi được chấm ở Nội trường: quan Sơ Khảo chấm mực son, quan Phúc khảo chấm mực xanh, quan Giám khảo chấm bằng mực hồng đơn.Trong ba lời phê, lời phê của quan Giám Khảo có giá trị quyết định nhất. Sau đó, quyển thi được chuyển ra Ngoại trường. Trừ hạng liệt phải giao cho quan Phân Khảo xét lại để đệ trình sau, các loại ưu, bình, thứ đều được Chánh, Phó Chủ khảo quyết định.
Trường thi Bình Định tồn tại 67 năm, (từ 1851 đến Mậu Ngọ, 1918), mở 22 kỳ thi, chọn được 342 cử nhân (còn tú tài thì rất nhiều), trong số đó sĩ tử Bình Định chiếm gần 60%, còn lại dưới 40% là của 4 tỉnh Quảng Ngẫi, Phú Yên, Khánh Hoà, Bình Thuận. Trong số 22 thủ khoa, Bình Định chiếm hết 12 người, còn lại 10 người là của Quảng Ngãi; các tỉnh khác không có. Có một khoa thi, chỉ riêng làng Xuân Quơn (Tuy Phước) đã có 3 anh em thi đỗ hai cử nhân, một tú tài, trong khi cả tỉnh Khánh Hoà chỉ thi đậu một cử nhân, nên trong dân gian có câu: “Một tỉnh Khánh Hoà không bằng một nhà Xuân Quơn”.
Khoa thi Ất Mão 1855, quan Chánh Chủ Khảo Trường thi Bình Định là Bảng nhãn thị Trạng Nguyên Vũ Duy Thanh, khi khảo lại các quyển thi, thấy có một quyển mà cả ba ông Sơ, Phúc, Giám Khảo đều phê liệt, nhưng xét thấy văn chương có khí phách khác thường, biết rằng thí sinh nầy sau sẽ làm nên nghiệp lớn, ông bèn phê cho trúng tuyển. Quả nhiên về sau vị Cử nhân nầy tên là Ich Khiêm trở thành một văn thần kiêm võ tướng lập được nhiều công huân với triều Nguyễn. Khoa thi năm 1905 ra đầu đề là “Chí thành thông thánh” và bài phú “Danh sơn lương ngọc”. Ba chí sĩ Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Hhỳnh Thúc Kháng trên đường vào Nam hô hào duy tân, ghé vào Bình Định gặp kỳ thi hạch liền cùng vào thi. Cả ba đều nộp quyển ký chung tên Đào Mộng Giác, nội dung bài thi thức tỉnh tinh thần dân tộc. Trong đó bài “Chí thành thông thánh” như sau: “Nhìn lại việc đời đã trống không, Non sông nhỏ lệ khóc anh hùng. Muôn dân trói buộc vòng nô lệ, Tám vẻ thơ văn giấc ngủ nồng. Chịu mãi suốt đời người mắng nhiếc, Bao giờ đến lúc hết cùm gông? Các ngài chửng lẽ không tâm huyết, Xin đọc bài nầy một mạch thông“(bản dịch). Bài phú “Danh sơn lương ngọc”, lời lẽ rất bi thống, nội dung khẳng định truyền thống quật cường của dân tộc; phê phán thứ văn chương khoa cử, thói đê hèn cam chịu cúi đầu; cảnh báo mọi người hãy mở to mắt mà nhìn thời thế.
Ngày nay, Trường thi Bình Định chỉ còn là một gò hoang tiêu điều, quạnh quẽ, nhưng trong lòng đất vẫn còn ôm ấp một quá khứ vẻ vang, nơi đã tuyển chọn, cung cấp cho đất nước, quê hương những anh tài có nhiều công lao với nước, với dân. Nên chăng xây dựng trên nền cũ Trường thi Bình Định một nhà bia lưu niệm một thời khuyến học, khuyến tài.
Di tích Văn Miếu Bình Định
Sau khi Gia Long lên ngôi, triều Nguyễn quay lại lấy chữ Hán làm văn tự chính thức, ra lệnh các tỉnh thành trong nước lập Văn Thánh miếu để thờ Khổng Tử, chấn hưng Nho học. Ngay trong năm Gia Long thứ nhất, 1802, Văn Thánh miếu Bình Định đã được xây dựng tại làng Vĩnh Lại, huyện Tuy Viễn, thuộc xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn ngày nay, dân gian thường gọi là Văn Thánh hay Văn Miếu.
Theo sử cũ, Văn Miếu Bình Định xưa được bao bọc bởi một vòng tường đá ong. Miếu xây mặt hướng nam, trước có bình phong, ba biển và cửa tam quan; trong vườn trồng xoài tượng.
Cổng tam quan gồm 4 trụ biểu xây gạch vữa, hai trụ hai bên thấp hơn hai trụ giữa. Các trụ nối nhau bằng các cầu bảng trang trí pháp lam và cuốn thư. Cầu bảng trên hai trụ giữa gắn một biển hình chữ nhật đề ba chữ Văn Thánh Miếu. Mặt ngoài hai trụ biển, một bên đề Đạo tại lưỡng gian (đạo giữa đất trời), bên kia đề Trác việt thiên cổ (giỏi vượt nghìn đời).
Chính điện được xây dựng trên một nền đất cao ở trung tâm vườn miếu, dài chừng 330m, rộng chừng 20m; kết cấu nhà hai nóc. Tiền đường 5 gian, Chính đường 5 gian, 2 chái. Trước miếu, về bên trái và bên phải dựng hai ngôi nhà đối diện nhau là Tả vu, Hữu vu.
Sau Chính điện, phía đông và phía tây có hai toà nhà, mỗi toà một gian, hai chái. Đó là Hữu Văn đường và Dị Lễ đường dùng làm chỗ các quan nghỉ chân, sửa soạn lễ phục trước khi vào tế ở Chính điện. Cạnh Hữu Văn đường có một ngôi nhà vuông thờ Thổ công. Phía bắc Chính điện có Thần khố là kho cất giữ các đồ tế tự và Thần trù là nhà bếp nấu nướng phục vụ việc tế lễ và quan quân về dự lễ. Thần khố và Thần trù chỉ mở cửa khi có tế lễ.
Việc thờ phụng được bài thiết trong Chính điện và Tả vu, Hữu vu. Theo quy định của triều Nguyễn, tại Văn Miếu không thiết tượng thánh mà chỉ lập mộc chủ để thờ. Gian giữa Chính điện thờ Khổng Tử với thần vị “Chí Thành tiên sư Khổng Tử “; gian kề phía đông thờ thần vị của Nhan Tử, Tăng Tử, gian kề phía tây thờ thần vị Mạnh Tử và Tử Tư, gọi chung là tứ phối. Hai gian ngoài thờ Thập nhị triết (12 vị hiền triết). Tả vu và Hữu vu thờ chư vị Tiền Nho, Tiền Hiền. Hai chái bên của Chính điện đặt chuông trống nhã nhạc. Các ca sinh tập trung ở chái tây, các vũ sinh tập trung ở chái đông. Các gian tiền đường trước Chính điện để trống, vào ngày lễ, thì trải chiếu để hành lễ.
Việc tế lễ ở Văn Miếu được cử hành vào tháng Hai và tháng Tám âm lịch, rất trọng thể theo đúng các nghi thức do Triều đình quy định. Đến năm 1888, vua Đồng Khánh chủ trương tiết kiệm, lễ tế Văn Miếu giảm xuống còn một lần vào tháng Hai hằng năm.
Dưới chế độ phong kiến, lễ tế Văn Miếu rất quan trọng. Ở kinh đô, vua đích thân đến tế, còn ở hàng tỉnh, quan Tổng đốc đứng chủ tế và các quan viên lớn nhỏ đều tập trung về hành lễ. (Xem vần L, mục Lễ hội Văn Miếu)
Như các Văn Miếu khác, Văn Miếu Bình Định vừa là nơi thờ phụng các bậc thánh hiền, vừa là chốn vinh danh kẻ sĩ, tuyên dương các nhà khoa bảng địa phương. Trước Văn Miếu Huế có hai dãy bia tiến sĩ, còn ở Văn Miếu Bình Định không có bia tiến sĩ mà chỉ có bảng sơn son, thiếp vàng ghi danh các nhà khoa bảng trong tỉnh qua các thời kỳ, được gắn trên vách trong gian Tiền đường.
Trên khoảnh đất rộng ngày xưa Văn Miếu toạ lạc, nay chỉ còn lại hai tấm bia đá khắc 4 chữ “Khuynh cái, hạ mã” (nghiêng lọng, xuống ngựa), cách cổng tam quan chừng vài chục thước và bức bình phong “Long mã phù đồ” trước Chính điện. Mấy di vật hiếm hoi nói trên cũng đủ nói lên sự trọng vọng của tiền nhân đối với học vấn, đối với hiền tài.
Trong đoạn 3 của phần giới thiệu về Di Tích Căn Cứ Núi Bà có đoạn "Nơi tỉnh chọn làm căn cứ là Hóc Mang trên đỉnh Núi Bà (nay thuộc địa phận thôn Hội Lộc, xã Cát Hưng, huyện Phù Cát). Đây là một căn cứ lợi hại, với nhiều hốc đá hiểm trở, có đường độc đạo nối thông với các vùng khác. Tại đây, có suối nước tự nhiên thuận tiện cho sinh hoạt. Đặc biệt, Hóc Mang là vị trí trọng yếu, trấn giữ phía nam con đèo cắt dọc Núi Bà. Từ đây, có thể dễ dàng triển khai lực lượng xuống các xã đồng bằng huyện Phù Cát, khi cần thiết cũng có thể theo đường đèo Tố Mộ, rút sâu vào trong núi, đến những căn cứ an toàn hơn ở thung lũng Sơn Rái, hoặc di chuyển lên phía bắc, tới những vùng cư dân ẩn sâu trong núi như các thôn Chánh Hùng, Chánh Thắng (xã Cát Thắng, huyện Phù Cát)." Tôi góp ý như sau. Hai thôn Chánh Hùng và Chánh Thắng là đơn vị hành chính của xã Cát Thành chứ không phải thuộc xã Cát Thắng như bài viết này! Trân trọng!