Di cảo thơ cuối cùng của nhà thơ Yến Lan (*)
10:21', 13/10/ 2006 (GMT+7)

Bìa cuốn sách “Tuyển tập thơ tứ tuyệt”.

Tuyển tập thơ tứ tuyệt là tác phẩm thứ 12 đã được ấn hành, kết tụ từ hơn 60 năm tha thiết sống cho thi ca của Yến Lan. Trong tuyển tập mang tính di cảo này, vợ ông: bà Nguyễn Thị Lan đã sưu tầm và ghi chép trong thời gian khá dài, để tập hợp được hơn 440 bài thơ tứ tuyệt được ông sáng tác rải rác từ năm 1936 cho đến những ngày cuối đời - những bài thơ ông sáng tác ngay trên giường bệnh.

Nhận xét về thơ tứ tuyệt của Yến Lan, nhà thơ Chế Lan Viên từng viết: “Biết bao bài tứ tuyệt trên báo hiện nay chỉ là thơ bốn câu, tứ tuyệt của Yến Lan có tình và có “thế võ” của tứ tuyệt!” (Lời tựa cho tập Thơ Yến Lan, Nxb. Văn học, 1987). “Thế võ” mà Chế Lan Viên đã nhận xét, là tất cả những cảnh tình đều được ông gạn lọc tinh tế, cô đọng, sáng tạo, với một tâm hồn phong phú và nhạy cảm. 

Từ năm 1936, nghĩa là cách nay đã tròn 70 năm, Yến Lan đã viết Hoa tặng với lời thơ dung dị, nhẹ nhàng, nhưng cũng rất sâu sắc, mới lạ:

Tuổi trẻ băng đồng đi hái hoa

Tặng em ngấp nghé chực quanh nhà

Người không ra đón hoa dần héo

Héo cả làn mây đỉnh núi xa

Bài Vô đề viết năm 1942 thì thật lãng mạn:

Gió về đâu đó bước khoan thai

Trở nhẹ cành sương mở búp nhài

Một áng hương đưa vừa đủ lọt

Kẽ bàn tay ấy lướt ngang cây

Tình cảm thâm trầm, nhưng cũng tuyệt đẹp về mẹ:

Ai giải dùm ta tiếng võng đưa

Của bao người mẹ tự bao giờ

Những chiều năm xưa năm xưa ấy

Trong lúc ngoài trời lén đổ mưa

(Tiếng võng ru)

Ý thơ giản dị, chân tình mà sâu lắng:

Nhà không vườn, không gác, không sân

Tôi nợ đời rau trái tôi ăn

Nợ hàng xóm trưa hè bóng mát

Nợ em cài bên cửa một vầng trăng

(Nợ)

Ngày 20 tháng 9 năm 1993, Yến Lan ra thăm lại Huế, ông “Nhớ Hàn Mặc Tử” qua 4 câu thơ mà mỗi câu là một hình ảnh tượng trưng được chạm khắc rất tài tình:

Lạc ngang chiều Huế một làn mây

Lá trúc sương in trắng nét mày

Chữ lạnh thơ treo trăng lã chã

Ai về Vĩ Dạ, nhớ ai đây?

Năm 1998, Yến Lan trở bệnh nặng, thời gian trên giường bệnh, ông vẫn tha thiết với thơ. Ông đã viết hơn 60 bài thơ tứ tuyệt cuối cùng. Những ngày gần từ giã cõi đời, ông không cầm bút tự viết được, mà chỉ đọc, bà Nguyễn Thị Lan ghi chép vào một tập vở học sinh. Đặc biệt, những bài thơ sau cùng này vẫn tràn đầy lòng thiết tha với thơ, với người, tràn đầy niềm tin yêu cuộc sống:

Theo dõi đêm sâu mỗi tiếng gà

Tưởng chừng chốc lát sẽ đi xa

Tình còn lưu chút mùi nhân thế

Lay lắt hoàng hôn một gốc hoa

(Lay lắt)

Đến ngày 22-7-1998, ông viết Phổ một mối tình cờ đầy lòng trắc ẩn và lãng mạn:

Cõi xa ta đã đến thăm

Ơn em năm tháng như tằm ươm tơ

Phổ học một buổi tình cờ

Vầng trăng thuở nọ bất ngờ hiện ra

Đọc 440 bài thơ của 240 trang sách, chúng ta đều bắt gặp ở nhà thơ tài hoa những bài tứ tuyệt trong sáng, giản dị, sâu lắng và nhất là luôn có sự khám phá, đầy tính sáng tạo, truyền thẳng xúc cảm, ý tình một cách lôi cuốn. Ở Tuyển tập thơ tứ tuyệt, ta gặp được cả “cái tình” lẫn “thế võ” thơ tứ tuyệt của Yến Lan.

Yến Lan đã đi xa 8 năm. Đây là món quà cuối ông gửi lại cho chúng ta.

  • Mang Viên Long

(*) Đọc Tuyển tập thơ tứ tuyệt của Yến Lan, Nxb. Văn học, 2006.

In trang Gửi phản hồi

CÁC TIN KHÁC >>
Đến với triết học dễ hiểu  (12/10/2006)
"Chống" phải đi liền với "xây"  (12/10/2006)
Chúng ta luôn mắc nợ nhau  (10/10/2006)
Ký ức nhà tập thể  (10/10/2006)
Ria hổ   (09/10/2006)
"Điểm tô" cho tháp Bánh Ít  (05/10/2006)
Tạm hoãn việc tổ chức Liên hoan Tuồng không chuyên toàn quốc lần thứ II-2006  (05/10/2006)
Khúc bi tráng về cuộc chiến với định mệnh  (03/10/2006)
Cảm nhận nhỏ qua một trường ca (*)  (03/10/2006)
Thần dược chữa "bệnh" tham nhũng  (03/10/2006)
Tháp Bình Lâm - cô gái đẹp ẩn mình  (03/10/2006)
Đã phát hiện phần chân đế đá đồ sộ  (29/09/2006)
Đứng thẳng lưng dưới mặt trời  (28/09/2006)
Trò chuyện với người viết "Học phí trả bằng máu"  (28/09/2006)
Bạn tôi  (28/09/2006)