Một đám cưới trước ngày đại thắng
Ký của BÙI THỊ XUÂN MAI
Ngày ấy, đám cưới của anh chị được tổ chức tại sân nhà của tía má tại xã Bình Quang, huyện Bình Khê (nay thuộc huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định). Đó là một đám cưới khá đặc biệt.
Đặc biệt không phải chỉ vì chú rể là lãnh đạo Đảng của một tỉnh lân cận, thủ trưởng một đơn vị quân đội giữ việc chia lửa với chiến trường Điện Biên Phủ - mà cụ thể là ai tôi xin phép được kể sau; cũng không phải chỉ vì nó diễn ra ở giữa vùng tự do - chứng tỏ ta đã làm chủ tình hình vững vàng đến đâu; nó đặc biệt ở chỗ quân dân địa phương coi hạnh phúc của cán bộ cách mạng là niềm vui của mình, coi công chuyện của hai họ có phần việc nào giúp được thì cứ thế xắn tay vào giúp. Và ngày chiến thắng thực dân Pháp càng lúc càng rõ ràng hơn!
***
Hôm ấy là vào chiều tối 6.3.1954. Đã năm giờ chiều mà máy bay khu trục của địch vẫn còn quần đảo rè rè trên bầu trời, tìm địa điểm ném bom, khuấy động một vùng quê tự do yên tĩnh. Sẩm tối. Khi không còn tiếng máy bay địch, anh em bộ đội bắt tay vào dựng rạp. Một tấm tăng lớn do tiểu đoàn trưởng Nguyễn Huy Chương mượn của đơn vị đem đến căng lên thành một mái vòm cao, rộng trùm gần hết khoảng sân. Những chiếc bàn vuông làm bằng các thanh cây ghép và trên mặt được trải lên các tấm dù pháo sáng của địch. Những mặt bàn màu trắng bỗng trở nên rực rỡ khi hai đứa em bé bỏng của chị lăng xăng hái những chùm hoa ngũ sắc mọc ở bờ rào rắc lên.
Khi những ngọn đèn dầu nhỏ được thắp lên, ánh sáng lấp lánh tỏa khắp sân nhà là lúc đám cưới bắt đầu. Anh Hồng Ưng, Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai - đại diện họ nhà trai đứng ra làm chủ hôn cho đám cưới của thủ trưởng mình - đồng chí Bí thư Tỉnh ủy. Chú rể gọn gàng trong bộ quân phục nắm tay cô dâu bước ra trong tiếng vỗ tay reo vui của bà con dòng họ trong xã và anh em bộ đội Trung đoàn 120. Đứng bên cô dâu xinh tươi trong chiếc áo lụa tơ tằm màu mỡ gà, chú rể dạn dày sương gió như trẻ ra so với tuổi ba mươi tư của mình. Dự buổi tiệc ngọt với bánh trái làng quê giản dị hôm ấy, ai cũng mừng vui chúc cho đôi lứa trăm năm hạnh phúc và “vui duyên mới không quên nhiệm vụ”…
Ông Trương An (người ngồi, mặc áo đen đội mũ - bên trái) lúc đó là Bí thư Tỉnh ủy Khánh Hòa - cùng các đại biểu đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II - năm 1951, tại Việt Bắc. Ảnh: Tư liệu của tác giả.
Và quả là không thể quên nhiệm vụ thật, bởi ngay mờ sáng hôm sau chú rể, cô dâu cùng khẩn trương lên đường theo chiến dịch, tất cả phải khẩn trương vì trận thắng quyết định đã hiển hiện ngay trước mặt. Anh là Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai kiêm Chính ủy Trung đoàn 120 phải về ngay Trung đoàn bộ đóng ở làng Tơ Lok (Vĩnh Thạnh), chỉ huy mặt trận An Khê - đây là mặt trận phối hợp với mặt trận Bắc Tây Nguyên, phải bẻ gãy cuộc hành quân Atlante của thực dân Pháp; đồng thời phối hợp với các mặt trận khác ở Khu 5 đánh tiêu diệt, kềm giữ chi phối sinh lực địch để ta giành thắng lợi quyết định trong chiến dịch Điện Biên Phủ, tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp.
Phần chị, theo lời kêu gọi “tất cả cho chiến thắng”, đã nhanh chóng lên đường đi dân công hỏa tuyến cùng anh chị em thanh niên trong xã. Chị là trung đội trưởng trung đội nữ dân công gánh gạo lên hỏa tuyến cho bộ đội và chuyển anh em thương binh về các trạm cứu thương ở vùng sâu.
Đường đi dân công xa hàng chục cây số với đèo dốc hiểm trở nhưng chị luôn tích cực và không nề hà bất cứ khó khăn nào. Đèo Tú Thủy, Cửu An cao, mấp mô ghềnh đá, chị chỉ lo mình ngã sẽ làm đổ gạo, làm đau anh em thương binh. Có lẽ cùng với khí thế chung của một người dân yêu nước, trong lòng chị còn có tình yêu và sự cảm phục đối với anh, giúp chị vượt lên.
Trong kháng chiến chống Pháp, huyện Vĩnh Thạnh của Bình Định là vùng tự do của Liên Khu 5 có những lúc linh hoạt thay đổi để phù hợp với tình hình. Đầu năm 1953, do yêu cầu thống nhất chiến trường, Bình Định chuyển giao huyện Vĩnh Thạnh cho tỉnh Gia Lai quản lý (sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tháng 6.1954, huyện Vĩnh Thạnh lại được giao trở lại cho Bình Định). Xã Bình Quang của Vĩnh Thạnh là vùng bán sơn địa trù phú bên dòng sông Côn dữ dội nhưng cũng rất thơ mộng. Những hàng cây cổ thụ ven bờ xanh mát như những chàng dũng sĩ mình trần gân guốc, oai hùng ngày đêm canh giữ mảnh đất quê hương thân yêu của mình.
Hồi ấy vào năm 1953, một hôm sau buổi làm việc, khi cùng ngồi uống nước, một đồng chí cấp phó của tía chị, lúc đó đang là Bí thư Huyện ủy Vĩnh Thạnh, cười cười, rồi nói:
- Có một chú bộ đội Cụ Hồ đã chấm con Phệ của ông, ông có đồng ý gả nó cho người ta không ? “Phệ” là tên gọi âu yếm hồi còn nhỏ của chị.
- Con Phệ giỏi giang, là “công chúa” của nhà tôi đấy. Chàng trai nào hiền lành, thông minh mới được tôi chọn làm phò mã. Tía chị cũng cười cười nói đùa lại một cách tự hào về con gái mình.
- Cậu này cũng giỏi lắm! “Ông mai” tỏ ra thán phục người mình đang giới thiệu và chuyển thái độ, bắt đầu nói chuyện với tía với một thái độ nghiêm túc.
Nghe qua, tía cũng thấy xuôi xuôi. Biết con gái mình cũng đã mười tám đôi mươi rồi, chuyện dựng vợ gả chồng không còn sớm gì nữa, nhưng ông nghĩ, đây là vấn đề hệ trọng của một đời người, không thể cứ cha đặt đâu là con ngồi đấy như thời ông được. Ông phải thăm dò ý con gái đã. Biết đâu trong trái tim nó đã có bóng dáng một anh chàng nào rồi. Ở nhà khi nghe tía nói, trong lòng chị tôi dâng lên một niềm vui thầm kín, đồng thời cũng ngổn ngang những ý nghĩ. Trong xã, nhiều chàng trai cùng sinh hoạt thanh niên và cả mấy anh bộ đội đóng quân trong làng cũng có tình ý với chị, nhưng chị chưa thật sự để ý riêng một ai cả. Chị còn mải việc gia đình và ham sinh hoạt đoàn thể. Chị cũng có biết sơ sơ về anh bộ đội “đặt vấn đề” với chị. Anh có nước da bánh mật, dong dỏng, đẹp trai nhưng có vẻ nghiêm nghiêm thế nào ấy. Nghe nói anh có rất nhiều tên, bí danh nhưng tên thường gọi là Hiền…
Anh Hiền thỉnh thoảng có ghé về nhà thăm tía má chị và chị. Anh thường tìm cách trò chuyện riêng với chị. Và ngày tháng trôi qua, cái anh chàng bộ đội có cách xử sự hiền lành cùng với kiểu nói chuyện pha chút hài hước rất hợp với cái tên Hiền đã dần dần chiếm được cảm tình của những đứa em bé bỏng của chị.
Anh nói với chị rằng từ rất lâu rồi anh không còn được gọi hai tiếng cha mẹ nữa. Cha mẹ anh đã mất khi anh đang trong lao tù đế quốc. Năm 1935, lúc mười lăm tuổi anh đã tham gia cách mạng, làm liên lạc cho các chú trong Tỉnh ủy Quảng Trị quê anh. Và sau đó theo các chú, bước chân anh cũng rong ruổi với phong trào cách mạng khắp các tỉnh miền Trung từ Quảng Trị vào Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hòa… Hơn mười năm hoạt động bí mật, anh bị địch bắt hai lần, kết án hai án tù với ba mươi tám năm khổ sai, bị giam ở nhà lao Quảng Trị, Hỏa Lò, bị đày đi Côn Đảo. Trong các nhà tù của đế quốc, anh bị chúng tra tấn đánh đập dã man, chết đi sống lại nhiều lần nhưng anh vẫn giữ vững khí tiết của người cộng sản, không hé răng khai báo nửa lời, một lòng trung trinh với cách mạng. Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, anh trở về đất liền, tiếp tục đi vào cuộc kháng chiến cứu nước trường kỳ... Anh ưu tiên việc nước, gần như rất ít nghĩ về bản thân, cơ hội xây dựng gia đình của anh vì thế rất ít, anh cũng không quan tâm mấy. Cho đến khi Trung đoàn 120, đóng quân ở vùng tự do Bình Định anh mới để ý chị.
Sau ngày chiến thắng Điện Biên Phủ tháng 5.1954, Hiệp định Genève được ký kết, anh chị được lệnh tập kết ra Bắc. Mãi đến khi có với nhau mấy mặt con, anh mới “tiết lộ”, lúc tìm hiểu chị, anh đã phải báo cáo lên Khu ủy Khu 5. Và tỉnh cũng đã cử mấy đồng chí khác về công tác, đóng quân tại nhà chị cả tháng trời, bí mật tìm hiểu gia đình chị. Khi tin tức báo về khu cho biết gia đình chị là gia đình cách mạng, cha mẹ đều là đảng viên, Khu ủy mới đồng ý cho anh “tiếp tục yêu”; tổ chức phải cẩn trọng như vậy bởi lúc đó vị trí của anh quá quan trọng, anh đang là Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai, kiêm Chính ủy Trung đoàn 120. Và hơn một tháng sau khi được phép “tiếp tục yêu”, Tỉnh ủy Gia Lai và đơn vị mới bố trí được thời gian tổ chức đám cưới cho anh chị.
Dạo ấy, tình hình chiến sự rất căng thẳng, máy bay địch quần đảo suốt ngày. Đầu năm 1954, thực dân Pháp đem 22 tiểu đoàn đánh ra Tuy Hòa, mở đầu chiến dịch Atlante hòng đánh chiếm vùng tự do Liên Khu 5. Đồng thời chúng còn tăng cường máy bay, tàu chiến bắn phá đường giao thông, kho tàng; tung biệt kích, gián điệp tiếp tay cho bọn phản động nhằm gây rối hậu phương, chặn nguồn tiếp tế của ta cho chiến trường…
Anh công tác rất bận, phải theo chiến dịch mút mùa. Dù rất yêu chị và bản thân cũng khao khát có một gia đình, nhưng tình hình khẩn trương khiến anh chưa thấy dịp nào rảnh rỗi để lo chuyện riêng. Sợ anh “quên”, anh em trong đơn vị thương anh, không thể để thời gian kéo dài thêm nữa, họ bàn bạc và cùng nhau quyết định chọn cho bằng được “ngày lành tháng tốt” tổ chức lễ cưới cho anh chị. Tía má chị hay tin cũng vui vẻ dọn ngay cái bồ lúa chống máy bay trong góc nhà, quây cho đôi uyên ương một cái buồng hạnh phúc dã chiến thật ấm cúng.
Đêm tân hôn chỉ có hai tiếng đồng hồ. Sáng tinh mơ hôm sau, cả hai - mỗi người một ngả, anh chị cùng hối hả đi vào chiến dịch. Phải mãi đến khi ta giành chiến thắng An Khê, chị mới được các đồng chí trong Trung đoàn đưa lên Trung đoàn bộ đón anh cùng đồng đội thắng trận trở về. Ngày hôm sau chị còn vinh dự được cùng anh dự lễ mừng chiến thắng. Đêm đó, nhân dân vui mừng đốt đuốc sáng rực trời. Trong không khí tưng bừng của ngày hội, tiếng cồng chiêng, tiếng ca hát rộn rã khắp núi rừng thôn xóm… hạnh phúc đoàn tụ của anh chị thêm một lần nữa lại hòa chung nhịp đập với quân dân địa phương.
Chị Tư tôi tên là Bùi Thị Xuân Lâm, còn anh trong bài - con rể của tía má tôi, anh rể tôi tên là Trương An (tức An Châu, SN 1922, quê quán Trung Sơn, Gio Linh, Quảng Trị). Anh là một chiến sĩ cách mạng thời tiền khởi nghĩa, là người con rể hiếu thảo của đất Võ Bình Định.
B.T.X.M