Phối hợp chống thất thu thuế khai thác khoáng sản: Ngày càng chặt chẽ, hiệu quả hơn
Sự phối hợp chặt chẽ, có trách nhiệm giữa Cục Thuế tỉnh và Sở TN&MT trong thời gian qua đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài nguyên khoáng sản trên địa bàn tỉnh, chống thất thu thuế trên lĩnh vực này, đảm bảo công bằng, công khai, minh bạch.
Tăng cường phối hợp
Thực hiện Chỉ thị số 08/2022 của UBND tỉnh về việc tăng cường công tác quản lý thuế đối với hoạt động khai thác khoáng sản (KTKS) trên địa bàn tỉnh, Cục Thuế tỉnh đã chủ động phối hợp với Sở TN&MT đẩy mạnh công tác tuyên truyền các quy định về cấp phép KTKS và công tác quản lý, chống thất thu thuế hoạt động KTKS; đồng thời, xây dựng ứng dụng bản đồ số mỏ khoáng sản trên phạm vi toàn tỉnh.
Theo đó, Sở TN&MT chủ động cung cấp và chia sẻ thông tin, cơ sở dữ liệu cho Cục Thuế tỉnh vị trí các điểm mỏ khoáng sản trên địa bàn tỉnh, trữ lượng khoáng sản và 144 giấy phép KTKS đã được các cấp có thẩm quyền cấp cho DN. Bên cạnh đó, phối hợp với các ngành chức năng xây dựng hệ thống giám sát KTKS, trong đó có việc lắp camera tích hợp công nghệ AI, có khả năng đếm và thống kê các lượt xe ra vào mỏ khoáng sản, phục vụ công tác quản lý, kiểm tra, phát hiện, ngăn chặn xử lý kịp thời các trường hợp khai thác vượt công suất, khai thác vào ban đêm.
Sở TN&MT yêu cầu các DN thực hiện đúng Luật Khoáng sản, tuân thủ các quy định của pháp luật trên lĩnh vực thuế, xem đây là giải pháp căn cơ trong việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài nguyên khoáng sản, chống thất thu đối với hoạt động KTKS, đảm bảo công bằng, cạnh tranh lành mạnh giữa các DN.
Hơn nữa, việc thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế là “điểm cộng” của DN để Sở TN&MT xem xét trước khi kiến nghị cấp có thẩm quyền ban hành quyết định cấp phép hoặc gia hạn, chuyển nhượng quyền KTKS cho DN; DN nào còn nợ đọng thuế liên quan đến lĩnh vực khoáng sản thì không xem xét đề xuất cấp mới, gia hạn giấy phép khai thác khoáng sản.
Các thông tin, cơ sở dữ liệu thu thập từ hệ thống giám sát KTKS được Sở TN&MT chia sẻ với Cục Thuế tỉnh và các sở, ban, ngành, địa phương. “Khi cơ quan thuế cần số liệu về sản lượng khoáng sản khai thác từ thực tế để đối chiếu việc DN kê khai thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, đảm bảo thu đúng, thu đủ và chống thất thu đối với hoạt động KTTS, chúng tôi sẵn sàng cung cấp”, ông Trương Bá Vinh, Trưởng Phòng Tài nguyên khoáng sản (Sở TN&MT), cho hay.
Hiệu quả bước đầu
Từ những thông tin, cơ sở dữ liệu được Sở TN&MT cung cấp, tháng 8.2023 Cục Thuế tỉnh đã xây dựng, đưa ứng dụng bản đồ số mỏ khoáng sản vào vận hành. Ứng dụng được cài đặt trên cổng thông tin điện tử của Cục Thuế tỉnh, đăng tải công khai thông tin cụ thể về vị trí từng mỏ khoáng sản, loại khoáng sản và trữ lượng, thời hạn khai thác, sản lượng khoáng sản khai thác đã khai thuế; số thuế mà DN đã nộp, còn nợ... để toàn xã hội cùng tham gia giám sát, phản biện.
Từ đầu năm đến nay, có hơn 2.000 lượt DN truy cập và vào ứng dụng bản đồ số mỏ khoảng sản. Qua ứng dụng này, cơ quan thuế tỉnh đã tiếp nhận được nhiều thông tin quan trọng từ các DN, chính quyền địa phương liên quan đến việc KTKS, kê khai thuế và nộp thuế.
Theo Cục Thuế tỉnh, nhờ sự phối hợp chặt chẽ, có trách nhiệm của Sở TN&MT, công tác quản lý, chống thất thu thuế hoạt động KTKS trên địa bàn tỉnh diễn ra thuận lợi, đạt hiệu quả cao hơn. 7 tháng đầu năm 2024, Cục Thuế tỉnh đã thu được 43,4 tỷ đồng tiền cấp quyền KTKS, tăng 13,3 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước; thu 98,284 tỷ đồng tiền thuế tài nguyên, tăng 43,913 tỷ đồng; thu 45,434 tỷ đồng phí bảo vệ môi trường, tăng 21,778 tỷ đồng. So với trước đây, số DN được cấp phép KTKS chưa thực hiện nghiêm quy định pháp luật trong việc xác lập các nghĩa vụ tài chính phát sinh đã giảm đi rất nhiều. Cơ quan thuế tỉnh cũng đã xác định một số DN còn nợ thuế, từ đó triển khai các giải pháp phù hợp, đảm bảo thu đúng, thu đủ, công bằng, công khai, minh bạch.
Ông Trần Hữu Danh, Phó Cục trưởng Cục Thuế tỉnh, cho hay: Hiện Cục Thuế tỉnh đã bổ sung công cụ đối chiếu giá kê khai thuế tài nguyên với giá của UBND tỉnh vào bản đồ số mỏ khoáng sản; đồng thời, so sánh tờ khai thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường với quyết toán năm của DN, đảm bảo công tác quản lý, thu thuế và chống thất thu hoạt động KTTS được tốt hơn”.
PHẠM TIẾN SỸ