Hiệu quả từ bón phân hữu cơ vi sinh cho cây trồng
Sau thời gian nghiên cứu và phát triển, Th.S Cao Hoàng Trình cùng các cộng sự tại Trung tâm Thông tin - Ứng dụng Khoa học công nghệ (Sở KH&CN) đã phối hợp cùng Công ty CP Công nghệ Hữu cơ Thái An sản xuất thành công phân bón hữu cơ vi sinh, ứng dụng hiệu quả trong các mô hình canh tác cây trồng theo hướng hữu cơ.
Kết quả này là thành quả của dự án thuộc chương trình Nông thôn miền núi giai đoạn 2016 - 2025, với mục tiêu “Ứng dụng tiến bộ KH&CN trong việc xây dựng mô hình xử lý chất thải chăn nuôi thành phân bón hữu cơ vi sinh”, qua đó góp phần bảo vệ môi trường và phát triển nông nghiệp sạch tại Bình Định. Dự án do Trung tâm Thông tin - Ứng dụng KHCN chủ trì, với sự tham gia của các đơn vị nghiên cứu và sản xuất.
Mục tiêu của dự án là nghiên cứu, phát triển và ứng dụng phân bón hữu cơ vi sinh, với nguồn nguyên liệu chính là chất thải từ chăn nuôi, để cải thiện chất lượng đất và năng suất cây trồng theo hướng bền vững và thân thiện với môi trường. Trong khuôn khổ của nhiệm vụ nghiên cứu, Th.S Trình và nhóm nghiên cứu đã triển khai mô hình sản xuất chế phẩm vi sinh dùng để xử lý chất thải chăn nuôi thành phân bón hữu cơ tại Trạm nghiên cứu thực nghiệm KH&CN, với quy mô sản xuất 500 kg/mẻ.
Ứng dụng phân hữu cơ vi sinh vào canh tác cây bưởi theo hướng hữu cơ. Ảnh: CAO TRÌNH
Bên cạnh đó, trung tâm đã hoàn thành việc xây dựng mô hình sản xuất phân hữu cơ vi sinh tại Công ty CP Công nghệ Hữu cơ Thái An (xã Nhơn Mỹ, TX An Nhơn), với quy mô 1.000 tấn/năm. Sau khi sản xuất thành công lô phân hữu cơ vi sinh đầu tiên, nhóm nghiên cứu đã tiến hành thử nghiệm sản phẩm này trên một số mô hình thử nghiệm, gồm 5 ha ớt tại xã Mỹ Quang, huyện Phù Mỹ, 5 ha bưởi tại xã Ân Tường Tây, huyện Hoài Ân và 10 ha lúa tại xã Phước Thành, huyện Tuy Phước; kết quả ban đầu cho thấy nhiều tín hiệu rất tích cực.
Cụ thể, tại mô hình trồng ớt ở xã Mỹ Quang, nhóm nghiên cứu đã cung cấp cho các hộ dân tham gia mô hình 10 tấn phân hữu cơ vi sinh, 50 lít phân bón lá sinh học và 100 lít thuốc phòng trừ sâu bệnh sinh học. Sau khi theo dõi và ghi nhận sự phát triển của cây ớt từ tháng 10.2023 đến tháng 5.2024, kết quả cho thấy cây ớt phát triển vượt trội so với mô hình đối chứng, với số thu nhiều hơn khoảng 31,4 triệu đồng/ha.
Tương tự, tại mô hình trồng bưởi ở xã Ân Tường Tây, cây bưởi phát triển tốt, ít bị sâu bệnh và năng suất thu hoạch cũng vượt trội so với canh tác truyền thống. Bưởi trồng theo phương pháp hữu cơ đạt trọng lượng trung bình 1,5 kg/quả, với năng suất tăng thêm 5,04 tạ/ha so với mô hình canh tác kiểu cũ. Việc sử dụng phân hữu cơ vi sinh giúp giảm đáng kể chi phí đầu vào, với chi phí thấp hơn 6 triệu đồng/ha so với việc sử dụng phân hóa học và mang lại lợi nhuận cao hơn 16,1 triệu đồng/ha. Thêm vào đó, việc áp dụng phân bón hữu cơ vi sinh giúp bảo vệ sức khỏe người sản xuất, người tiêu dùng, đồng thời giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Theo ông Trần Đình Văn, Chủ tịch Hội Nông dân xã Mỹ Quang, qua thực tế sản xuất, hầu hết các ruộng ớt sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh do Trung tâm Thông tin - Ứng dụng KHCN cung cấp đã thu hoạch với năng suất ước đạt 1,25 tấn/sào, tăng 1 tấn/ha so với cách chăm sóc kiểu cũ. Việc sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh không chỉ giúp cây ớt phát triển nhanh, ít bệnh mà còn làm tăng năng suất và giảm chi phí sản xuất.
Ông Văn cũng cho rằng phân bón hữu cơ vi sinh sẽ phát huy hiệu quả tối đa nếu được bón vào giai đoạn làm đất và lên luống với liều lượng 10 kg/sào (tương đương 2 tấn/ha), sau đó tiếp tục bón thêm khi cây bước vào giai đoạn sinh trưởng.
“Thời gian tới, Trung tâm Thông tin - Ứng dụng KHCN nên mở rộng thêm đối tượng cây trồng sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh, nhất là một số cây trồng chủ lực của địa phương như cây kiệu, dưa hấu”, ông Văn đề xuất.
Theo bà Nguyễn Thị Hồng Phượng, Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Hoài Ân, địa phương này có hai loại đất chủ yếu là phù sa và đất gò đồi. Qua quá trình theo dõi và thử nghiệm, phân hữu cơ vi sinh đặc biệt phù hợp với cây bưởi, đặc biệt là trên đất gò đồi. Bà Phượng cho rằng trong thời gian tới, đơn vị chủ trì nghiên cứu nên mở rộng và triển khai mô hình thử nghiệm trên nhiều loại đất khác nhau, từ đó xác định thêm những loại cây trồng phù hợp với phân bón hữu cơ vi sinh, giúp mở rộng đối tượng sử dụng phân bón này.
Th.S Cao Hoàng Trình cho biết, nhóm nghiên cứu sẽ tiếp tục theo dõi, đánh giá chất lượng phân bón hữu cơ vi sinh và tiếp tục hợp tác với Công ty CP Công nghệ Hữu cơ Thái An để hoàn thiện sản phẩm. Trung tâm cũng đang chuẩn bị kế hoạch đưa sản phẩm phân bón hữu cơ vi sinh ra thị trường rộng rãi, góp phần nâng cao hiệu quả nông nghiệp sạch, bền vững tại Bình Định và các địa phương khác.
TRỌNG LỢI