Một thời chúng tôi đã sống, chiến đấu...
Chúng tôi là những học sinh miền Nam được ra Bắc học tập sau khi Hiệp định Genève được ký kết. Năm đó, tôi 7 tuổi, nhỏ đến mức người ta có thể xách lên rồi quăng như một chiếc kẹo lên tàu Na Uy. Ba tôi đi chuyến tàu sau. Năm 1966, tôi thi vào Trường ĐH Tổng hợp - khoa Văn. Sau tốt nghiệp (7.1970), tôi học thêm ở Trường Viết văn của Hội Nhà văn Việt Nam (khóa IV). Dù đã có quyết định vào công tác tại Đài truyền hình Việt Nam, nhưng tôi giấu cha xin đi B vào Nam tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ thống nhất nước nhà. Cái chân trái yếu, tôi “qua mặt” bác sĩ chiến trường bằng cách đá cái chân thiệt mạnh, suýt nữa trúng vào mặt bác sĩ khi ông đang ngồi kiểm tra chân. Ông cười, bảo: “Đá mạnh vậy nhưng chân yếu đấy nhé. Ra chiến trường có nổi không?”. Ba tôi, dẫu thương con gái chân yếu tay mềm không chịu nổi gian lao, súng đạn nơi chiến trường, nhưng khi biết tôi đã quyết, đã dặn tôi rằng: “Đã quyết chí rồi thì có khổ mấy cũng phải chịu, không được B “quay”. Trước khi vào Nam, chúng tôi trải qua vài tháng “tập dượt”, nhưng nào thấm vào đâu so với thực tế khắc nghiệt ở chiến trường.
Khóa IV Trường Viết văn của Hội Nhà văn Việt Nam năm ấy có 4 nữ xung phong đi B là tôi, nhà thơ - nhà văn Hà Phương, Vũ Thị Hồng, Trần Thị Thắng. Tháng 2.1971, chúng tôi bắt đầu hành quân vào Nam. Cứ 5 ngày đi bộ 1 ngày nghỉ. Những thiếu nữ 21, 22 tuổi chúng tôi lần đầu tiên xa nhà, lần đầu tiên biết nấu cơm (vì trước giờ ăn cơm tập thể) và mới thấm thế nào là “giữa lằn ranh sinh tử”.
Tháng 10.1971, tôi về công tác tại Hội Văn nghệ Trung Trung bộ, được phân về quê hương Bình Định. Thời đó tôi sống chủ yếu ở vùng Mỹ Thọ, Mỹ Thành, Mỹ Lộc (Phù Mỹ), rồi ra Hoài Nhơn, Hoài Ân. Ngày đi thực tế, gặp gỡ người dân, đêm về ngủ nhà dân hoặc chạy ra bìa rừng để ngủ vì sợ địch càn bất thường. Gian khổ ác liệt lắm, nhưng chúng tôi thấy cuộc sống vẫn tươi đẹp, sống hết mình vì lý tưởng, không chút đắn đo vị kỷ.
Tôi viết truyện ngắn đầu tay tựa đề “Người vùng sâu”, lấy nguyên mẫu nhân vật chính là đội trưởng đội du kích xã Hoài Thanh, huyện Hoài Nhơn tôi đã gặp trong hội nghị thi đua điển hình cấp quân khu. Trong truyện có chi tiết người vợ của anh bị địch trả thù bằng cách tiêm thuốc để không thể có con, nhưng là sự thực mà anh cố giấu. Lần sau gặp lại, anh ấy hỏi sao tôi biết được điều đó, làm tôi nghẹn lòng.
Nhớ mãi lần tôi và nhà văn Vũ Thị Hồng (vợ của nhà văn Chu Lai) đi công tác ở Hoài Nhơn, gặp một anh bộ đội tên Đức, người Hà Nội, rất đẹp trai. Sáng ấy anh còn kể chuyện mới cưới vợ một tuần thì vào Nam chiến đấu, đến chiều đã hy sinh rồi. Có lần tôi về vùng Quy Thiện (xã Mỹ Châu, huyện Phù Mỹ) chỉ thấy những thân dừa trơ trụi vì trúng bom, pháo, là xúc cảm để tôi viết truyện “Dừa không lá”. Gia đình mà tôi ở nhờ thời đó cũng có một người con trai mất trong cuộc đấu tranh giữ đất. Hai trong số những đứa con của họ, họ nhờ, tôi đã đặt tên là Chiến Thắng và Hòa Bình...
Bình Định được giải phóng (31.3.1975), hai ngày sau tôi về Quy Nhơn, làm việc tại Báo Nghĩa Bình, sau đó chuyển sang Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh.
Thời bao cấp, giữa cuộc sống còn nhiều khốn khó, bộn bề, nhưng tôi, như bao người cùng thời khác, vẫn động viên nhau rằng mình vẫn may mắn được sống, có một mái ấm gia đình, chồng - con, trong khi rất nhiều người khác đã hy sinh, bị thương tật vĩnh viễn hoặc gánh chịu vô vàn những nỗi đau không tên thời hậu chiến cho đến ngày nay.
Chiến tranh đã lùi xa, song thế hệ của chúng tôi, vẫn luôn mang theo hoài niệm có một thời mình đã sống, chiến đấu hết mình vì những lý tưởng cao cả... Để rồi day dứt một nỗi đau rằng tại sao trong hòa bình con người lại không thể sống đẹp như trong thời chiến.
BÙI THỊ CHIẾN (Nhà văn, nhà báo) (THU HÀ ghi)
Bài viết hay, ý nghĩa. Như vậy, nhà văn, nhà báo Bùi Thị Chiến là 1 trong những "văn nhân Bình Định" bị bỏ sót!?