Ðường bay của mảnh đạn
Đêm qua nghe đài báo sắp có đợt mưa kéo dài chín mười ngày nên sáng nay bà Dịu xách làn đi chợ sớm. Ở chợ ai chẳng biết bà lựa từng bó rau non, từng con cá tươi là để mang sang cho ông Vịnh. Trước kia người ta hay hùa vào gán ghép để hai người về chung một nhà. Nhưng khi tóc hai người đã muối tiêu, vết chân chim bậu đầy trên khóe mắt thì người ta thôi không trêu nữa. Bởi họ cũng đã quen với đôi bạn láng giềng chung hàng rào mọc đầy dây tơ hồng vàng óng xen lẫn những lá mồng tơi xanh rờn.
Tranh của họa sĩ Đỗ Phấn
Trời đổ mưa đúng như nhà đài dự báo. Mưa lâu thật lâu, đổ rào rào trên mái tôn, gầm gào với nỗi cô đơn trong người đàn bà. Ngồi trong nhà nhìn ra sân mãi cũng chán. Bà ra hè ngó qua hàng rào tìm kiếm bóng dáng lúi húi ngồi chặt chổi của ông. Ngày nắng ông ra đồng làm ruộng hoặc lên rừng. Ngày mưa rỗi rãi ông ngồi làm chổi, đan đát bán cho lái chợ. Bà từng ước gì được ngồi kế bên chẻ lạt cho ông buộc chổi; nghe ông giục “pha giùm tôi ấm nước chè xanh”. Để nói với nhau những câu chuyện phiếm. Bà biết ông nhiều đêm mất ngủ. Có thể vì cô độc, mà có thể cũng vì ký ức chiến tranh. Đã bao lần bà ướm lời muốn được về chung nhà thổi cơm, nấu nước, làm bạn hàn huyên mà ông đâu có chịu. Phải chi ông gật đầu thì đã chẳng có những đêm thao thức. Mà đâu phải chỉ mình ông mất ngủ…
***
Ngày ông trở về từ chiến trường ai cũng mừng vì thấy còn lành lặn. Chứ mười người về thì có đến bốn năm người để lại chiến trường một phần cơ thể. Ông trở về chỉ có chiếc ba lô xẹp lép và hai mảnh đạn găm đâu đó bên ngực trái. Năm rồi ông đi mổ gắp ra một mảnh. Còn một mảnh chạm dây thần kinh bác sĩ đành lặng lẽ lắc đầu. Những hôm trái gió trở trời vết thương đau nhức ông đóng cửa nằm co ro ở góc giường. Bà bưng sang cho ông tô cháo nóng. Ông ngồi húp từng thìa cháo nghe tiếng chổi bà lia loẹt quẹt ngoài sân. Ông mường tượng ra cảnh bà đi đến đâu là lũ gà chạy theo đòi ăn, chó mèo luẩn quẩn bên chân. Bà quen thuộc từng xó nhà góc bếp. Thỉnh thoảng ông lại gọi với qua hàng rào để tìm một vật gì đó trong nhà mình như thế. Bà dĩ nhiên sẽ càu nhàu vài câu. Ủa, đồ nhà ông mà sao ông không nhớ để đâu? Hoặc cũng có khi bà tủm tỉm cười, xăng xái vừa chạy đi lấy đồ vừa bảo “phải chi mướn tôi về làm quản gia có phải tốt hơn không?”. Ông nén tiếng thở dài trong lồng ngực.
Thiên hạ thấy bà tất tưởi chợ búa lo cho ông mỗi ngày chỉ biết lắc đầu.
- Thương nhau vậy sao không về mà ở với nhau?
- Ai biết đâu, tại người ta lại muốn ở một mình.
- Ông ấy có người tình hồi chiến tranh, chưa quên được?
- Không có đâu mà…
Cũng có lúc người ta hỏi bà sao không đi lấy chồng? Chờ đợi gì một người không nghĩ cho mình? Bà cười bảo tại tôi thích sống vậy chứ đâu ai bắt. Mình thương, mà rồi được chăm sóc cho người mình thương đã là may mắn lớn. Khối người xa nghìn trùng ôm nhớ thương mà chết trong queo quắt, hiu quạnh đó thôi. Nhưng ông khác. Ông không thích cái kiểu may mắn ấy. Có lúc rượu say ông nhìn bà chằm chằm, gằn hỏi từng chữ:
- Sao bà không đi lấy chồng, để tui còn lấy vợ?
- Ông thích lấy ai thì cứ lấy. Mắc mớ gì đến tôi?
- Bà kè kè ngay bên hông, sáng trưa chiều tối í ới… ở nhà tôi. Ai dám đến thương tui nữa?
Riêng hôm đó thì bà khóc thật. Nhưng cũng đỡ ông nằm xuống giường, bôi chút dầu gió, kéo chăn đắp ấm, dọn dẹp tàn dư của cuộc rượu đơn độc. Xong đâu đó bà chạy về nhà mình úp mặt xuống gối mà khóc. Hồi ấy bà mới gần bốn mươi, tuy lỡ thì nhưng nếu gật đầu cũng có khối người xin cưới. Nhưng bà trót thương ông mất rồi. Thương từ cái ngày ông trở về từ khói lửa chiến tranh cúi lạy trước bàn thờ cha mẹ. Đôi vai vạm vỡ ấy run lên đơn độc. Bà đứng ngoài hàng rào tay vô tình nắm chặt gai tre nhọn hoắt, ứa máu mà thương. Bà phá bỏ hàng rào tre trồng một rặng mồng tơi, hai bên cùng hái. Ông tránh nhìn ra phía hàng rào. Lặng lẽ với đồng ruộng, mảnh vườn. Rồi già đi lúc nào không biết…
Ông ốm nặng. Ông nằm đó, nhẫn nhịn chịu đựng bằng những cái bặm môi. Bà không nỡ bỏ ông nằm một mình, nên loanh quanh dọn dẹp. Vừa dọn vừa càu nhàu đủ thứ chuyện để ông thấy nhà cửa bớt đi phần quạnh quẽ. Bà dọn từ ngoài ngõ đến xó nhà. Dọn từ thềm giếng đến gậm giường. Từ chạn bát đến mấy chiếc giỏ tre treo lủng liểng trên mái bếp. Dọn xong hết mà vẫn chưa muốn về. Không lẽ cứ ngồi đó, hai con người im lặng đến nghe từng muỗi vo ve. Bà ngó lên bàn thờ thấy tàn nhang rụng tả tơi qua những mùa gió. Mấy bức di ảnh cũng bám đầy mạng nhện, chỗ vài con bướm khô gửi xác. Cũng vừa lúc ông thiu thiu ngủ, bà đoán cơn đau chắc đã giảm đi. Bà thở dài đứng dậy bắc ghế lau bàn thờ. Hình ảnh những người đã khuất bỗng nhiên sống dậy trong bà.
Mẹ ông khi còn sống quanh năm lam lũ, tính thương người lắm. Nhà có ít sắn, ít ngô đều san sẻ với láng giềng trong mùa đói. Có ít phiếu vải có khi cũng nhường hàng xóm may áo cho con. Mẹ ông ướm hai cái áo lên hai đứa trẻ cười bảo “sau này ở gần biết đâu bén duyên rồi lấy nhau cau trầu đâu có thiếu”. Tưởng nói vui vậy thôi mà quện duyên bà trọn cả một đời…
Đang trong dòng hồi tưởng thì bà giật mình khi nhìn thấy một túi nilon nhỏ để dưới bát nhang. Quay qua định hỏi thì thấy ông say giấc nên thôi. Qua lớp túi nilon phủ đầy bụi bà thấy giấy tờ bên trong đã ố vàng, nét chữ đã nhòe. Giấy tờ gì chắc là phải quan trọng lắm ông mới cất trên bàn thờ như thế. Bà định để lại chỗ cũ nhưng nghĩ thế nào lại mở ra xem. Chữ mờ quá bà phải mang ra cửa nhìn cho rõ. Bà đánh vần từng chữ: “Giấy xác nhận thương tật”. Bà cố nheo mắt nhìn cho rõ, mắt bà bỗng nhòe đi. Tờ giấy trên tay có ký ức chiến tranh với những đường bay của mảnh đạn. Có mảnh đang nằm dưới ngực trái của ông; lại có mảnh cắt luôn cái ước vọng hạnh phúc, ước vọng lấy vợ sinh con, có một mái ấm gia đình.
Bà cứ đinh ninh mình không còn nước mắt để khóc vì ông nữa. Ấy vậy mà…
Truyện ngắn của VŨ THỊ HUYỀN TRANG