Nhớ lại hội xuân xưa
15:29', 6/2/ 2007 (GMT+7)

Văn hóa Việt Nam căn bản vẫn là làng xã (Village- Culture). Dấu ấn làng quê ấy in đậm ở hội làng. Hội làng là hội lễ chung cho cả dân làng, là sinh hoạt văn hóa, xã hội, tôn giáo, nghệ thuật đặc sắc và tổng hợp, định kỳ của toàn bộ cư dân trong làng. Xuân thu nhị kỳ, hai mùa hội làng, người làng có dịp nghỉ xả hơi, để ăn và chơi, để ngưỡng vọng... sau những tháng ngày dài "đầu tắt mặt tối, một nắng hai sương". Nhưng vui nhất vẫn là hội xuân, bởi ngày xuân là thời điểm mạnh nhất của lễ hội, của hội làng.

 

Trò chơi đánh đu. Ảnh: Timnhanh.com

 

Bức vẽ chơi xuân (Du xuân đồ) của tranh làng Hồ có mấy câu thơ:

“Thái bình mở hội xuân

Nô nức quyến xa gần

Nhạc dâng cao trong điện

Trò thưởng vật ngoài sân”

Từ tháng Giêng, hội xuân-hội làng đua nhau mở khắp làng quê. Từng đoàn người chen vai, thích cánh dự lễ hội chùa, hội đền, hội đình, hội miếu, ... Không khí trẩy hội vừa trang nghiêm, vừa náo nức làm sao! Sau làn hương khói tín ngưỡng-tôn giáo trong hệ thống Lễ, ở đó thể hiện mối giao cảm giữa con người với siêu nhiên, tự nhiên (thần linh, ma quỷ, mưa gió, sông núi, các vị anh hùng dân tộc...), hội làng-hội xuân xưa có văn, có nghệ, có võ đồng thời có diễn (diễn tuồng, diễn chèo, diễn múa, diễn ca...), có thao (vật, võ, đua thuyền, hát phết, đánh đu...) là phần hội, trong đó con người như giao cảm với con người hơn.

Có lẽ không ở đâu, tinh thần cộng đồng, một đặc trưng văn hóa của người Việt, lại có dịp được thể hiện sắc nét, mạnh mẽ như ở hội làng.

Người ta đến hội làng với niềm cộng cảm mãnh liệt. Họ say mê với những truyền thuyết ngàn đời về những nhân thần, thiên thần trong mối giao cảm giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên. Người ta nhắc lại những hành động cao cả của ông cha, của tổ tiên trong buổi đầu lập quốc, mở đầu lịch sử giống nòi, người ta chiêm nghiệm về những câu chuyện kể các vị anh hùng chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước, các vị anh hùng văn hóa, những tổ sư bách nghệ đã xây dựng làng xóm, quê hương, mở mang, khai khẩn ruộng đồng, sáng lập các nghề, chế tạo vật phẩm...Cảnh trí hội lễ long trọng, trang nghiêm với cờ đại, cờ nheo, cờ tứ phương ngũ hành, với những biểu tượng long, ly, qui, phượng...Con người đến đây được tắm mình trong không khí linh thiêng, cảm nhận trong từng huyết mạch của mình nguồn sống từ xa xưa truyền lại. Còn những ai mơ mộng lại có dịp thả hồn trước bức tranh thiên nhiên kì thú, đầy chất thơ mộng của vùng trẩy hội. Và tất nhiên, hội làng cũng là dịp để trai làng gái quê được dịp thổ lộ tâm tình bấy lâu ấp ủ:

Đôi ta dan díu mấy lần

Một năm chỉ có tháng xuân chơi chùa

Mùa xuân làm cho con người và thiên nhiên dường như mới lạ, thanh tân, thanh xuân hơn. Nó lôi cuốn, nó thôi thúc lòng người...Lễ hội mùa xuân chính là dịp để con người, làng xóm tự biểu hiện mình, tự thỏa mãn nhu cầu văn hóa vật chất và tinh thần, thể hiện được đời sống tâm linh của mình. Qua lễ hội, con người bộc lộ tình cảm, tâm tình với nhau. Trong không gian hội lễ chùa Hương: “Trầm hương khói tỏa mờ/hương như là sao lạc/lớp sóng người lô nhô”, một mối tình thơ ngây, trong trắng đã hé mở dưới trời xuân:

Làn gió thổi hây hây

Em nghe tà áo bay

Em tìm hơi chàng thở!

Chàng ơi, chàng có hay ?

(Chùa Hương-Nguyễn Nhược Pháp)

Bên cạnh đó, hội xuân còn là phương tiện chuyển tải những giá trị văn hóa truyền thống từ thế hệ này qua thế hệ khác. Những di sản văn hóa dân tộc được bảo tồn một cách có hiệu quả trong hội xuân: hát chèo, hát bội, những trò chơi dân gian, những làn điệu dân ca... Bài thơ Đám hội của Đoàn Văn Cừ đã diễn tả không khí náo nức quanh các sinh hoạt hát xướng và trò chơi dân dã:

Mùa xuân ấy ông tôi lên tận tỉnh

Đón tôi về xem hội ở làng bên

Suốt ngày đêm chiêng trống đánh vang rền

Người lớn bé mê man về hát hội

“Suốt ngày đêm chiêng trống đánh vang rền”. Tiếng trống những đêm xuân vừa thực vừa mơ. Tiếng trống đình đám, trống hội làng đầy quyến rũ: “Làng ta mở hội tưng bừng/Chiêng khua, trống đánh vang lừng bốn bên” (Ca dao). Nó như  hiện lên, như mời gọi...Dân miền Trung quê mình ngày xuân làm sao thiếu được tiếng trống tuồng. “Tai nghe trống chiến không khiến cũng đi... Nghe giục trống chầu đâm đầu mà chạy” kia mà! Tiếng trống tuồng thôi thúc lắm, lôi cuốn lắm.

Tứ thơ hư ảo như trong mộng

Chợt vọng đâu đây tiếng trống tuồng

Có phải Kim Lân hồi biệt mẹ?

Giật mình nắng ấm, bỗng mưa tuôn

(Tiếng trống tuồng- Văn Trọng Hùng)

Người dân xứ Bắc mê chèo. Không hội xuân, hội làng nào ở xứ Bắc mà thiếu tiếng hát chèo:

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy

Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ

Mẹ bảo thôn Đoài hát tối nay.

(Mưa xuân- Nguyễn Bính)

Ô, cứ gì dân ta mới mê tuồng, mê chèo. Tuồng đã từng có mặt trên sân khấu trời Tây. Mới đây thêm một Esola Thủy với Hạn hán và cơn mưa cùng những bà mẹ chân đất đồng quê Thái Bình diễn chèo được khán giả Âu Tây ngưỡng mộ. Từ sân khấu của làng quê, của hội làng, hội xuân, tuồng chèo vụt bay đến trời Âu, ai mà chẳng khoái!

Đến như Xuân Diệu, trong những lần về thăm quê nhà, đã thao thức “không ngủ được” vì nhớ đến tuổi thơ sống trong điệu bài chòi quê nhà từ hội làng chợ tết:

Nghe bài chòi cắc cụp cắc ở chợ tết Văn Quang

Ôm cái cột đình làng Luật Bình rồng lượn...

(Đêm ngủ ở Tuy Phước)

Trong cái “sầu biệt ly vơi sáng, đầy chiều”, nhà văn Vũ Bằng nhớ về đất Bắc, trong tháng giêng mùa xuân, là nhớ về hội lễ mùa xuân. Nhớ đến mùa quan họ mở từ mồng bốn tháng giêng ở vùng Kinh Bắc. Cái đặc biệt của quan họ là lối hát này chỉ có riêng trong hội xuân. Vũ Bằng cho biết: “Anh đã biết hát ví rồi. Lối hát này, trai gái hát quanh năm. Tát nước hát, giã gạo hát mà đánh đu cũng hát. Hát quan họ khác thế: lối hát này chỉ có riêng trong những ngày hội mùa xuân, trai gái hát cần vui, nhưng có nhiều làng còn tổ chức hát thì thầm, treo giải. Muốn vào hát giải, trai gái phải biết năm giọng hát rất khó hát là Tình tang, Đường bạn, Hữ la, Xuống sông, Lên núi... hay lắm! Nhất niên nhất lệ, tội gì bỏ sót một buổi nào...” (Vũ Bằng- Thương nhớ mười hai, NXB. Văn học, 1993, tr.22-23).

Hội làng không thể thấy thiếu những trò vui và lễ hội làng nào cũng có trò đánh vật. Tranh dân gian làng Hồ tả cảnh vật tưng bừng với bốn cặp đấu vật dự thi, và hai chuỗi tiền giải, tràng pháo dài, gợi sức xuân lắm.

Cuộc vật hào hứng đến mức “cồng chiêng thoi thóp, dựng giăng chưa dứt miếng kỳ phùng” (Hoàng Cầm). Sức xuân mà!

Làng Vân Hà (tục gọi là làng Vân) ở Kinh Bắc mở hội xuân rất lạ. Làng sản xuất rượu ngon có tiếng. Ngày tết, làng mở hội thi rượu ngon và thưởng thức rượu: “Tết Vân Hà làng mở hội thi/Núc ních từng đôi chật đường nghẽn lối/Cổ ba tầng/Giò lụa nổi/Giò mỡ chìm/Nem bối rối”. Để đến kết cục, rã hội:

Chai đại lăn kềnh giữa chiếu

Chai bố chéo kheo

Vật vã góc bàn thờ

Chai con gậm giường rụt cổ

Túy lúy mềm soãi tóc khóc ngu ngơ

(Hội Vân Hà- Hoàng Cầm).

Mùa xuân và lễ hội làm con người phơi phới một sức sống tràn trề. Không khí đó ùa đến nơi thôn cùng ngõ hẻm làng quê:

Mừng xuân ngày hội cổng làng

Là nơi chen chúc bao nàng thơ ngây

(Cổng Làng- Bàng Bá Lân).

Thoáng chốc quay về với hội xuân xưa, thấy lòng mình thanh thản hơn, giữa bao nhiêu tất bật của đời. Có thể nói, hội xuân- hội làng là thời điểm hội tụ của mọi thể loại nghệ thuật dân gian, ngữ văn dân gian. Con người tận hưởng những sáng tạo của chính mình, tạo nên mối cộng cảm hiếm có giữa đời sống và nghệ thuật, giữa thực tiễn và nhận thức thẩm mỹ, giữa sáng tạo cá nhân và vai trò sáng tạo của cộng đồng.

  • Trần Xuân Toàn
In trang Gửi phản hồi

CÁC TIN KHÁC >>
Một vườn hoa nhiều hương sắc  (06/02/2007)
Phục dựng vở tuồng cổ “Ngũ Hổ Bình Liêu”  (06/02/2007)
Nhiều hoạt động văn hóa mừng Đảng mừng Xuân  (05/02/2007)
Báo Bình Định Xuân Đinh Hợi - 2007  (02/02/2007)
Đi tìm vật thờ tự trong các tháp Chăm  (02/02/2007)
Sưu tầm những giá trị truyền thống của văn hóa Chăm H’roi  (01/02/2007)
Tết Đinh Hợi 2007: Sôi nổi với các hoạt động mừng xuân  (01/02/2007)
Đợt phim mừng Đảng mừng xuân Đinh Hợi  (31/01/2007)
Thư viện huyện, cơ sở: Còn nhiều cái khó  (30/01/2007)
Xây dựng bộ phim “Bình Định - Tiềm năng du lịch sinh thái biển”   (26/01/2007)
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Đào Tiến Đạt đạt Giải đặc biệt xuất sắc nhất Châu Á  (25/01/2007)
Tháng Chạp mùa này rét lắm  (23/01/2007)
Lạc vào thế giới gốm Việt  (23/01/2007)
Ru con...  (21/01/2007)
Đọc “Nhân vật Bình Định” của Lộc Xuyên Đặng Quý Địch  (19/01/2007)