Tôi được may mắn là người em kết nghĩa, là học trò nhỏ về văn học của nhà thơ Xuân Diệu từ năm 1960. Những năm sống gần ông, được ông giảng giải, cùng ông đàm đạo nhiều về văn học, về cuộc đời, ông đã để lại trong tôi một tấm gương quý báu, cả về đời thường và đời văn.
|
Nhà thơ Xuân Diệu ở Paris. Ảnh: TL
|
Tuy là một người sống độc thân, không ai “quản lý”, đốc thúc, nhưng do lòng ham say làm việc, nên Xuân Diệu có một lối sống rất ngăn nắp, gọn gàng và vô cùng tiết kiệm thì giờ. Ông có một chiếc đồng hồ báo thức nhỏ, hằng đêm, trước khi đi ngủ, bao giờ ông cũng lên dây chuông. Thường thường, mùa hè thì năm giờ, mùa đông thì năm rưỡi, đợt nào rét đậm thì sáu giờ kém mười lăm, là đồng hồ reo. Hễ chuông reo là ông vùng dậy ngay, không chần chừ. Ông thường bảo: “Hễ mình chần chừ một chút là cái ngại, cái lười nó đè mình liền”.
Việc đầu tiên của Xuân Diệu sau khi ngủ dậy là tập thể dục. Tôi chưa thấy một người nào giàu nghị lực, bền bỉ và tập thể dục buổi sáng thường xuyên như ông. Ông tập tạ tay, tập Cốc Đại Phong, tập chạy chân đất suốt dọc đường Cột Cờ, lên bể bơi Ba Đình tắm và tập bơi. Xuân Diệu kiên trì như thế hàng chục năm ròng, từ khi còn tráng kiện cho đến tuổi bảy mươi. Buổi tối, trước khi đi ngủ, ông thường tập thở, làm vài động tác thể dục nhẹ nhàng ở ngay trong phòng làm việc.
Bữa ăn điểm tâm buổi sáng của Xuân Diệu thường là một bát cơm rang, do u Khang, người u già giúp việc, làm cho ông. Chỗ cơm ấy là cơm nguội thừa ra của bữa tối hôm trước. Suốt bao nhiêu năm sống với ông, tôi chưa thấy ông đi ăn phở hoặc bất cứ một thứ quà sáng nào. Xuân Diệu rất thích xuống bếp để... “đi thực tế”’. Xuân Diệu không chỉ là thi sĩ, là nhà văn hóa lớn, ông còn là nhà “đạo diễn” những món ăn rất bình dân, nhưng tuyệt ngon.
Thường ngày, sau bữa điểm tâm sáng, tám giờ là Xuân Diệu ngồi vào bàn viết. Ông làm việc một mạch cho đến mười một giờ mới nghỉ giải lao, xuống bếp xem u già thổi cơm. Ông giúp u già bóc củ tỏi, tước hành, nếm thìa canh và trò chuyện cùng u già Khang. U già Khang là một bà cụ cô đơn, nhưng phúc hậu và là một “chuyên gia” nội trợ. Xuân Diệu kính trọng và yêu quý u như người má ruột rà của mình. Những lần đi công tác ở nước ngoài, ông giao tất cả chìa khóa nhà cửa, tủ giả cho u. Lần nào đi về, ông cũng có quà cho u. Chỉ là chiếc khăn vuông trùm đầu, đôi bít-tất, hộp thuốc bổ... nhưng là tất cả sự kính trọng, lòng biết ơn của ông đối với người giúp việc tận tâm, tận ý cho mình. Tuy nhiên, cũng như đối với tất cả những người đã trở thành thân tín với ông, nhiều lúc, ông cũng rầy la u già om sòm. Nhưng cái quý vô song ở Xuân Diệu là ngay khi cơn nóng dịu xuống, ông liền ân hận đến xót xa, chủ động xin lỗi u già tức khắc. Sự nổi nóng la lối người thân (kể cả đối với nhiều nhà thơ trẻ đến nhờ ông đọc bản thảo), rồi lại tự xin lỗi, dàn hòa, là cách ứng xử của Xuân Diệu với tất cả mọi người. Đó là cá tính đặc biệt của Xuân Diệu. Không phải ông xin lỗi xã giao, mà ông đau khổ thực sự, ông xin lỗi thành thật. Đức tính thật thà, bản tính thành thật là một bản lĩnh lớn và vô cùng quý báu trong con người nhà thơ Xuân Diệu. Xuân Diệu là một con người, một thi sĩ không biết “thủ đoạn” với ai bao giờ, ngoài một trái tim thành thật yêu thương con người hết sức đằm thắm. Ông thành thật với cả những nhược điểm của chính mình. Ai đã sống gần và hiểu Xuân Diệu, chắc chắn đều có cảm nhận này về ông.
Một đức tính nữa, tôi cho là rất quý và khó thực hiện trong suốt cả cuộc đời, nhất lại là đối với một tài năng lớn như Xuân Diệu, là tính tiết kiệm.
Xuân Diệu là một người suốt đời tiết kiệm. Tiết kiệm tới mức tối đa. Bất cứ cái gì là của cải do con người làm ra, Xuân Diệu cũng luôn trân trọng và tiết kiệm tới khi không thể tiết kiệm hơn được nữa. Một đoạn dây buộc, một tờ giấy báo cũ... ông cũng cất cẩn thận. Rất nhiều bản thảo văn xuôi của ông được viết trên những mặt giấy trắng phía sau các bản tin tham khảo, hoặc các tờ giấy vẽ của thằng cháu Hà Vũ đã bỏ đi. Xuân Diệu mặc quần đùi vá, áo may ô cũ chắp sửa lại, đi dép nhựa vá... là chuyện thường. Có lần mua tăm tre về, thấy những cái tăm quá to, ông nhờ u già chẻ đôi những chiếc có thể chẻ, cắt ngắn làm hai, vót nhọn một đầu rồi mới dùng.
Tuy là một người tiết kiệm cực đoan như thế, song chính ông lại là người hay giúp đỡ, cưu mang người khác hơn ai hết. Trong làng văn, đã có người được ông giúp tiền mua xe đạp, có người được ông biếu một chỉ vàng lúc gặp khó khăn. Ngoài đời, không ít người được ông cho không cả một chiếc xe đạp ngoại, hoặc cho tiền làm nhà. Bản thân tôi, khi tôi còn trong mặt trận miền Nam, mẹ tôi bị bom mất ở quê Nghệ An năm 1968, ông gửi qua đường bưu điện về trợ giúp thầy tôi hai trăm đồng. Hai trăm đồng bấy giờ là một khoản tiền khá lớn.
|
Kỷ niệm 21 năm ngày mất nhà thơ Xuân Diệu. Ảnh: Duy Quyên
|
Cả cuộc đời Xuân Diệu không nghiện bất cứ một thứ gì, từ rượu đến cà-phê, nước chè, thuốc lá, bia... Ông luôn luôn, ngày cũng như đêm, sáng cũng như chiều, ngày thường cũng như lễ Tết, là một người vội vã, cập rập chạy đua với từng giọt thời gian để làm việc.
Thường thường, sau bữa cơm trưa, Xuân Diệu nằm nghỉ nửa tiếng, đến một giờ. Mùa hè thì ông đặt quạt xa giường, để khỏi mát quá, gây ngủ sâu, khó dậy. Mùa đông, ông không đắp chăn, để khỏi ấm sinh ham ngủ. Ông ngủ vùi chập chờn như thế đến một giờ, hoặc một rưỡi chiều, chuông đồng hồ reo là dậy rửa mặt hoặc tắm qua loa, rồi ngồi vào bàn làm việc. Ông ngồi một mạch cho tới khi u già thổi cơm chiều mới giải lao; xuống bếp xem u già làm cơm ít phút. Sau đó, ông lại lên phòng, ngồi viết tiếp cho đến tận bữa tối. Ăn xong, nghỉ ngơi chừng một tiếng, ông lại ngồi vào bàn, làm việc đến mười rưỡi, hoặc mười một giờ đêm. Đó là theo thông lệ, còn những lúc gặp bài vở các báo hoặc nhà xuất bản đặt gấp, ông thường thức đến một, hai giờ sáng. Tuy vậy, sáng hôm sau, ông vẫn dậy sớm, không ngủ “rốn”, ngủ bù.
Làm việc ở một cường độ căng và cao như thế, nên Xuân Diệu thường bị đau đầu, đau thần kinh. Rất nhiều khi đang viết, ông phải rời bàn ít phút, ra nhúng đầu vào nước lã, hoặc dùng tạ tay đập đập vào sau đầu, vào hai bên vai, vào gáy khá mạnh. Ông thường tâm sự: “Thời giờ cũng ví như một súc vải. Mỗi người phải biết tính toán để cắt may được những bộ quần áo, đừng xé vụn ra, cuối cùng thì chỉ được một cái mùi-xoa hạng bét!”.
Suốt đời cầm bút, Xuân Diệu đã làm việc với nỗi niềm thúc hối ấy trong sâu thẳm tiềm thức của mình, không kể ngày đêm, không biết lễ, Tết. Ngay như Tết Nguyên đán cũng vậy, ông làm việc, viết lách suốt cả đêm ba mươi, một mình lặng lẽ đón giao thừa bằng một chén rượu mạnh ngay bên cái tủ ly bằng gỗ tạp- thường là rượu vốt-ca của Nga. Bởi thế, sinh thời ông thường tự càu nhàu với chính mình và với người thân: “Tôi phải tự làm “con trâu” kéo cày khổ sai, phải tự “xích” chân mình vào chân bàn, phải “nạo” óc ra mới có văn, mới có tác phẩm!”.
Xuân Diệu đã tự nói về mình không sai sự thật một chút nào.
|